Hôm nay,  

Con Đường Năm Xưa

31/10/202500:00:00(Xem: 1455)

Con Đường Năm Xưa
Chiếc xe Ford Failane 66 đầu tiên lái từ Seattle xuống Orange County, CA năm 1977
  
Tác giả Nguyễn Công Khanh sống tại vùng Seattle, tiểu bang Washington từ năm 1975, đã nghỉ hưu. Ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2013. Sau nhiều năm vắng bóng, tác giả vừa gửi đến Viết Về Nước Mỹ bài viết mới nhất của ông. Bài viết ghi lại kỷ niệm 50 năm định cư tại Hoa Kỳ thông qua hình ảnh những chiếc xe của ông lần lượt rong ruổi trên những con đường nối liền Seattle và California.
 
***
  
Năm 2025, người Việt gốc Mỹ  kỷ niệm 50 năm định cư tại Hoa Kỳ. Chúng tôi cũng sẽ có thêm một kỷ niệm định cư tại Seattle được nửa thế kỷ.

Nửa thế kỷ đã qua, những người đến sau, những người mới qua, không tưởng tượng được mọi chuyện đã có thể thay đổi như ngày hôm nay: Một “Việt Nam Mới”. Bây giờ, tiệm ăn, siêu thị bán đầy đủ thực phẩm Việt Nam không thiếu, sẵn sàng tại các khu người Việt. Trong các Mall, giữa các sắc dân đông đúc luôn luôn nghe được một giọng lạ nổi lên nhưng lại rất quen thuộc thì chắc là có người Việt trong đám đó rồi.

Hồi những năm 1975, 76, cố tìm một chai nước mắm cũng khó. Cả thành phố chỉ có một tiệm tạp hóa Tầu nhỏ. Thế mà chỉ mười mấy năm sau khi có làn sóng vượt biển, những người “boat people” đã đến, và họ đã làm nên lịch sử những “Little Saigon”, tôi tin tưởng như thế. Chúng ta hãy cám ơn họ. Họ có chí mạo hiểm và khả năng sinh tồn dù trong một xã hội không có kỹ năng thích hợp. Những người đến từ 1975, họ là quân nhân, công chức không có kinh nghiệm về doanh nghiệp. Nhưng trên cả mọi điều, tất cả họ đều là những người đã giữ vững màu cờ. Con cháu họ đã tiến một bước khá xa trong dòng sông chính về nhiều phương diện như kinh tế, văn hóa, kỹ thuật, chính trị và quân sự…
*
Nhớ lại, chiều tối cuối cùng ở Việt Nam, chúng tôi may mắn vào được quân cảng và leo lên được một chiến hạm đang nằm ụ, con tầu há mồm có tên là Thị Nại 502 rời Saigon. Khi đuổi theo được hạm đội tại Côn Sơn thì nhận được lệnh buông súng. Cả hạm đội được lệnh trực chỉ Subic Bay. Vì là con tầu cuối cùng nên đã phải vớt bao nhiêu thuyền bám theo, phải hứng cả một trực thăng và một máy bay T28 tuyệt vọng bay vòng quanh con tầu. Chạy được không bao lâu thì tầu hỏng máy, một chiến hạm khác phải quay lại kéo ròng rã 7 ngày sau mới đến được thay vì chỉ cần 2 ngày. Trước khi vào cảng, con tầu bị xóa tên và hạ cờ. Cả tầu gần 5,000 người đứng lên hát bài quốc ca vĩnh biệt, lá cờ vàng trên cao từ từ hạ xuống lần cuối cùng, với những giọt nước chảy ròng trên má. Chính phủ Phi Luật Tân e ngại không cho dân tị nạn ở lại nên ngay chiều hôm đó họ chuyển mọi người sang một thương thuyền, 4 ngày sau tới đảo Guam. Chúng tôi ở trên đảo khoảng 2 tháng, qua ba trại Orotee, Asan, Anderson, cuối cùng lên máy bay vào Mỹ và tạm cư tại Camp Pendleton Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, miền nam Cali. Gần 200,000 dân tị nạn nằm chờ trong các lều vải trải dài như báp úp, trước khi tìm nơi định cư.

Văn phòng trại gọi chúng tôi lên phỏng vấn làm thủ tục và khai sơ lược tiểu sử của mình để họ tìm người người bảo trợ cho thích hợp. Tôi khai vừa là công chức vừa là quân đội, người phỏng vấn nói, thôi tạm quên các chức vụ đó đi rồi hỏi tôi các “hobbies” của tôi là gì, tôi trả lời thích cây cỏ và làm vườn và bà vợ tôi khai thích nấu ăn. Mấy ngày sau, họ gọi lên văn phòng báo tin là đã tìm được người bảo trợ cho chúng tôi ở New York. Người này là một triệu phú, có du thuyền. Tôi sẽ có công việc làm vườn và thỉnh thoảng đi theo để dọn dẹp du thuyền. Còn vợ tôi thì làm phụ bếp. Tôi rất thích đi du lịch và thích biển, nghe thấy thế cũng ham, nhưng sau khi bàn bạc với nhau, không muốn xa họ hàng và bạn bè mà ai cũng chờ đi Cali nắng ấm, nên từ chối. Chờ mãi vào Cali không đến lượt vì quá đông và sau cùng Thống Đốc Cali có lệnh ngưng nhận dân tị nạn nên chúng tôi theo bà con chuyển lên Seattle.  Vậy là xém chút nữa hai vợ chồng tôi đã thành dân “Ô-sin”.  Cũng thật đáng tiếc …

Nghĩ lại cái thuở đất trời còn “hồng hoang” đó, mọi chuyện đối với người tị nạn đều bắt đầu từ số không. Gia đình tôi không có duyên được ở Cali. Tuy vậy, chúng tôi nhiều lần đã loay hoay nghĩ cách tìm về vùng nắng ấm để có cơ hội gặp lại những người bạn ngày xưa.

Hồi đó, khi di chuyển xa từ tiểu bang này sang tiểu bang khác, rất ít người dùng máy bay mà thường lái xe mất nhiều ngày đường. Vì thế con đường số 5 rất quen thuộc với tôi. Tôi đã lái xe dọc trên con đường này, đi lên đi xuống nhiều lần. Con đường huyết mạch chạy theo ven Thái Bình Dương từ Bắc xuống Nam của nước Mỹ dài 1381 miles. Con đường nối hai thành phố ngoại biên Vancouver B.C. của Canada và Tijuana của Mễ Tây Cơ. Con đường nối liền những thành phố mà có đông người Mỹ gốc Việt định cư và họ đã thành lập một dẫy Little Saigon. Từ Seattle qua Portland qua San Francisco, Sacramento, San Jose đến thủ phủ của người Việt tị nạn Orange County và San Diego.

Qua tháng đầu tiên, tôi có được bằng lái xe. Nhà thờ bảo trợ quyên góp giúp tôi $400 để mua xe. Ông mục sư đưa tôi đi tìm xe, gia đình tôi 2 vợ chồng, 5 đứa con, tổng cộng 7 người.  Với số tiền đó và số người đó, ông phải tìm những xe cỡ lớn, nhưng tôi thấy đều “cà cộ” nên tôi ngần ngừ lấy cớ không quen lái xe lớn và tốn xăng. Cuối cùng chọn được một chiếc Ford Fairlane 6 máy đời 66, trông tạm được, nhưng họ đòi $600. Tôi xin góp thêm $200 tiền dành dụm để có chiếc xe vừa ý.  

Có xe tôi chạy khắp vùng xung quanh thăm họ hàng và những người bạn mới đến. Mùa đông đến, trời mưa tuyết như lông ngỗng, tôi hào hứng cho cả gia đình lên xe phóng trên đường để hưởng những trận tuyết đầu tiên trong đời, mà không biết đến là có thể trơn trượt lao vào lề đường gây tai nạn.

Chạy được mấy tháng, xe bị cháy máy. Chúng tôi đã mua lầm chiếc xe xấu, may có một ông trong nhà thờ tình nguyện giúp làm máy lại. Ông mục sư và tôi phải cùng nhau hì hục mài xy-lanh và các pistons. Thật tội nghiệp ông, suốt mấy chục năm sau chúng tôi vẫn luôn đến thăm ông bà và khi họ mất chúng tôi đều có mặt trong đám tang.  

Xe của chúng tôi chạy lại tốt như mới. Hè năm đó, 1977, theo tiếng gọi của bạn bè, tôi quyết định làm một chuyến du Nam. Gia đình 7 người lại thêm một người cháu trai cũng đòi đi theo. Lúc đó, tôi không lo cho cái xe, không thấy ngại đường dài hơn ngàn miles mà cũng không nghĩ tới phải trải qua những con đèo dài lên dốc đến trăm cây số, và những cái dốc có độ cao hơn mặt biển 5,000 ft.


Cái xe nhỏ chở 8 nhân mạng cùng hành lý, không máy lạnh, Trời Cali nắng rát, đi qua những sa mạc, sờ vào thành xe đến bỏng tay. Nhiều quãng lên đèo, leo dốc nước trong bình xe bốc hơi mù mịt, nghe thấy cả tiếng nước sôi ùng ục. Tôi đã phải dừng lại nhiều lần, rest area nào chúng tôi cũng nghỉ để cho máy nguội và đổ thêm nước vào bình.

Cả cái quãng đường trường ấy, chúng tôi phải lái xe ba ngày. Tôi có một ý nghĩ như một số ít người nghĩ, đi không cần nhanh để đến, cái hạnh phúc và cái vui là ở dọc đường. Nhiều khi lái trên những chặng đường dài chỉ có xe mình chạy, dừng lại ở những trạm nghỉ chỉ thấy có một xe mình đậu, thấy cái mênh mông của trời đất. Tôi nhớ từng rest area, những chỗ nghỉ có dòng suối như Klamath trên đèo Grand Pass, chỗ nghỉ gần biên giới Oregon nhìn chiều hoàng hôn phía núi Mount Shasta, buổi sáng thức dậy được bơi trong hồ bơi của  Motel 6, ở một thị trấn bên đường có cái tên “Lost City” không thể quên…

Xe của tôi cũng qua khỏi được cái đèo cao Bakersfield, rồi cũng đến được Bolsa. Tôi lái thẳng đến một tiệm phở, khi ăn xong tôi đi ra trước cửa tiệm đứng ngóng. Đúng vào ngày cuối tuần, quả nhiên, không lâu mà cũng không hẹn, tôi gặp lại được một số bạn, cả những người từ nhiều năm không gặp ở Saigon. Chúng tôi ôm lấy nhau, cảm động và mừng rỡ. Thì ra chúng tôi cần có nhau.

Khi trở lại Seattle, tôi dùng đường 101 để tránh leo dốc hai cái đèo Bakerfield và Grand Pass. Đường 101 dọc theo biển Cali, tuyệt đẹp qua những khu du lịch và một rừng cây cổ thụ Sequoia, có một gốc cây cổ thụ được đục thành lối đi mà xe hơi có thể lái qua. Khi đến Cresscent City thì tôi lái quặt vào đường số 5 và đổ dốc xuống đèo Grand Pass vào Oregon về Seattle xanh mát.

*

Sau này việc làm đã yên ổn, mấy đứa con tôi vẫn còn trong thời trung học, tôi đi tìm mua một xe khác. Đến Dealer, thấy một cái xe Mercury Station Wagon full size mới đang trưng bầy, 8 máy, rộng rãi hai hàng ghế sau có thể ngã xuống làm giường đủ chỗ cho 5 đứa con nằm. Trên mui có thể để đươc nhiều hành lý. Tôi rất thích và đi xung quanh và mở cửa ngồi vào bên trong ngắm hoài. Một người bán xe của dealer biết ý đến gạ tôi và như cố ý đẩy cái xe cho tôi. Có lẽ họ đã để xe nằm choán chỗ quá lâu, họ đưa giấy tờ cho tôi biết họ bán không lời, và lái xe chiếc xe mới đó theo tôi về nhà. 

Vài năm sau, một lần nữa tôi lại đổi và mua một xe van, ghế trong xe cũng có thể ngã thành giường nằm. Ngoài ra còn có một sink để rửa mặt, một tủ lạnh nhỏ và ghế ngồi lái xe như phi công ngồi lái máy bay. Nhờ hai cái xe mới này tôi lái xe mở rộng quanh vùng và tiếp tục mỗi kỳ hè đưa vợ con xuống thăm Cali. Lần đầu tiên, cảm động, tay lái rung rung khi nhìn thấy những bảng “Little Saigon” trên xa lộ chỉ dẫn exit vào khu thương mại của người Việt.
Ngoài đường số 5, từ Bắc Cali xuống khu Bolsa còn có 3 con đường song song khác, tôi cũng đã lái đưa gia đình trên các con đường này. Đường 99, một ngã rẽ của đường số 5 đi qua Fresno và phải vượt đèo Bakersfield. Đường 405, qua ngả San Francisco, San José  đông và vui. Con đường 101 dọc theo biển Cali, tuyệt đẹp.

Rồi đến khi mấy đứa con vào đại học, lên ở trong “dorm”, tôi không còn có thể tập họp chúng để làm những cuộc hành trình như trước nữa. Tôi giữ chiếc xe van mấy năm không có dịp dùng đến và nghĩ đến chuyện phải bán. Khi nhìn chiếc bị lái đi, bỗng nhiên tôi thấy như cuộc đời mình không phải là chỉ giở sang trang mà đang sang một chương mới.

Tôi thấy nhớ và muốn trở lại những con đường năm xưa mình đã đi qua, những rest areas mình đã dừng xe nghỉ, tìm lại những ngày đầu ở Bolsa mà nay nhiều người bạn cũ không còn nữa. Các con tôi đã đủ lông cánh, rời tổ tung cánh đi các phương trời xa. Tôi chờ xem có một đứa con nào ngỏ ý sẽ làm cuộc hành trình như những ngày trước tôi đã bao lần chở chúng, để tôi có dịp đi theo. Người trẻ thì xoải cánh đi tìm những chân trời mới, người già thì cứ muốn trở ngược lại con đường cũ.

Tết năm ngoái, chúng tôi bay xuống Cali, đi chợ đêm khu Phước Lộc Thọ, đứng giữa đám đông những người cùng tiếng nói, nghe tiếng pháo nổ lác đác đó đây, tự nhiên tôi nhớ lại một Saigon xưa đã mất và thấy một Saigon mới thật gần, đầy hứa hẹn. Hôm sau ra máy bay trở về, lúc ra khỏi máy bay trời Tây Bắc nắng ấm trở lại, hàng đào bên đường, những nụ hoa đã bắt đầu hé mở…

Năm nay, nhân dịp cháu ngoại lớn nhất của chúng tôi lập gia đình. Như mọi người cùng lứa tuổi, thế hệ con của chúng tôi đã lập gia đình và yên ổn từ lâu, nay là lúc bắt đầu của thế hệ kế tiếp. Chúng tôi bay xuống San José dự lễ và hôm sau mấy cô con gái bằng cái xe thuê, lái đưa chúng xuống vùng Bolsa.
 
Đoạn đường này không dài lắm, khoảng trên 400 miles. Lúc đi, mấy cô lái theo đường 101, dọc theo biển qua các vùng Monterey thăm các thành phố cổ Carmel, 17 miles drive qua những biệt phủ nhà giầu và ngưng lại các cảnh quan ven biển. Tối đó chúng tôi nghỉ tại Solvang, một thành phố cổ của di dân Đan Mạch có nhiều cối xay gió và ăn sáng bánh Danish, uống cà phê  tại một quán  truyền thống.
 
Sáng sau, xe của chúng tôi quay lại đường 101 dọc theo  biển, qua Malibu vẫn còn những cọc nhà cháy đen, trơ trọi do trận cháy kinh hoàng năm trước chưa được xây lại. Chúng tôi tiếp tục lái và dừng lại vùng Santa Barbara và Santa Monica, chiều tối mới tới đươc nhà nghỉ, gần khu Phước Lộc Thọ. Thay vì chỉ cần lái thẳng khoảng 6,7 giờ là đến, chúng tôi đã trải dài ra hai ngày, nhưng đầy cảm hứng.

Mọi lần trước đến Bolsa, chúng tôi có dịp gặp lại các bạn cũ từ hồi Trung học, Đại học rủ đi ăn nhà hàng hay ngồi dài tại quán cà phê, nói những chuyện của những ngày xa xưa. Lần này thấy thiếu nhiều bạn không đến được vì lý do sức khỏe.
 
Lúc trở về lại San José, con gái tôi lái một mạch trên đường số 5, chỉ nghỉ một lần ở dọc đường đổ xăng, ăn trưa, tổng cộng thời gian mất khoảng gần 7 tiếng đồng hồ. Con đường này tôi đã lái nhiều lần hơn 30 năm về trước, hai bên toàn là sa mạc, nay đã thành những đồng xanh, những trại cây trồng thẳng tắp ngút ngàn.
 
Năm mươi năm qua, thời gian đã làm thay đổi khá nhiều, nhưng những thành phố xưa vẫn còn những nét cổ nguyên thủy và những bãi biển Thái Bình Dương từ Seattle qua Oregon Beach đến San Diego vẫn còn giữ vững được vẻ thiên nhiên và cái tình tự cho một quê hương mới vẫn thấm rộng mênh mông.  
  
Nguyễn Công Khanh
 

Ý kiến bạn đọc
03/11/202519:33:33
Khách
Cảm ơn tác giả đã đóng góp 1 bài viết thật hay, người đọc thấy thấp thoáng mình trong đó... khi những con chim đã tung cánh vô dorm, và khắp các phương trời... ước mong được đi với chúng những chuyến road trip như ngày xưa.
03/11/202515:15:09
Khách
Xin cảm ơn đã đọc và cho lời bình.
02/11/202503:38:30
Khách
Cám ơn tác giả về một bài viết hay. Xin chúc ông và gia đình luôn được bình an và mạnh khỏe.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 405,213
Suốt tuần ni, bắt đầu từ ngày 27 tháng 10 đến chừ, tôi chỉ muốn lên mạng nhìn hình ảnh Huế lũ lụt và gọi điện thoại người chị tên Giang, nhưng rất khó khăn vì nhà bị cúp điện. Tôi nghe chị kể: Sau khi tôi gởi số tiền từ cô em chồng tên Tịnh Tâm cùng mấy chị em hùn phước về BS Đặng Nga và nhóm chị Nhuỵ (NTN) nhờ giúp bão lụt. Chị tôi đã đến nhà chị Nhuỵ và nhóm sắp xếp tiền vào phong bì 200k, bỏ sẵn sàng mỗi bao gồm bịch gạo 10 ký, thùng mì gói và vài thứ khác. Nhóm đã thuê xe và chuẩn bị lên đường vào ngày thứ hai 27 tháng 10 (đầu tuần) về làng Phong Điền tổ chức phát quà tại Chùa. Không ngờ tối đó mưa bão, đài loan báo tin tức hôm sau lụt sẽ vào Huế. Cả nhóm cancel chuyến đi thì trưa ngày đó nước vào nhà. Mức nước chảy cuồn cuộn lên thật nhanh cho đến tối. Cháu trai tôi bước xuống nhà nước ngập ngang cổ, còn những nhà thấp hơn thì xem như lấp đến mái nhà.
Đất trời Arizona giữa tháng 9 vẫn như một chảo lửa. Ông trời dường như đang mê tu luyện môn “Cửu Dương Thần Công”, phóng hỏa lực ba con số xuống cõi hồng trần. Bầu trời xanh lơ mà mặt trời như ngủ quên, vẫn đều đều rải xuống trần gian cái nắng nóng đến nhão cả người, vạn vật như chảy ra thành một chất lỏng đặc sánh; con người rũ rượi, nhễ nhãi mồ hôi, hằng ngày vật vã bên cái máy “ây-xi” ráng sống sót, mong hạ đi, đón thu về. Nhóm Bút Tre bèn quyết định chạy trốn lên vùng cao, lên tận Hoàng Thạch Sơn, tức Núi Đá vàng, Yellowstone National Park.
Các con của tôi đều học trường Tiểu Học Công Lập miễn phí của chính phủ, lên trung học hai đứa đều học trường tư Albert Demin của giáo hội Công Giáo tại thành phố Nogent sur Marne, bên cạnh Le Perreux Sur Marne nhà của chúng tôi an cư từ năm 1997. Hai nhóc của tôi bắt đầu học tiếng Anh từ lớp Sáu, đến lúc thi tú tài hai đứa đã rành tiếng Anh cả hai đậu tú tài hạng ưu (mention Bien). Sau khi đậu tú tài, Duy Hải (DH) học khóa dự bị hai năm (classe préparatoire) chuyên toán, Lý, Hóa nếu không thi rớt mới được ghi danh thi tuyển vào các Đại Học lớn của Pháp (Grande Ecole) mỗi năm chỉ nhận vài trăm sinh viên thôi. Học sinh đã qua lớp chuyên toán điểm toán, lý, hóa xê xích nhau vài điểm thôi, để lọt vào vòng chung kết thí sinh phải làm bài luận văn (Dissertation) và thi tiếng Anh.
Tôi trở lại thành phố Denton vào ngày Chủ Nhật, ngày 26 tháng Mười năm nay. Thành phố Denton cách Dallas khoảng 40 miles về hướng tây bắc. Năm nay Denton được các nhà lập pháp chính thức công nhận là thủ đô Halloween của bang Texas (Halloween capital of Texas). Denton quả thật là một thành phố dành cho những ai yêu thích lễ hội Halloween với khu downtown được trang trí với những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc theo chủ đề Halloween do các nghệ sĩ địa phương sáng tác. Trong suốt 31 ngày của tháng mười năm nay, khu quảng trường downtown của thành phố Denton biến thành xứ sở thần tiên Halloween vì thành phố luôn tổ chức các sự kiện chủ đề Halloween cho mỗi ngày.
California đang vào Thu. Khí trời trở nên mát mẻ, bỏ lại sau lưng những ngày hè oi bức. Cũng một buổi sáng đầu tuần như thường lệ nhưng mọi việc dường như chậm lại, vài điện thư gửi đi cũng chưa thấy hồi âm, mọi việc có lẽ đều bị ảnh hưởng từ việc chính phủ đóng cửa. Tôi cho phép mình được thư thả ngồi bên ly cà phê nóng, chậm rãi nhâm nhi chiếc bánh croissant thơm lừng với một chút phô mai. Ngắm mưa rơi lộp độp trên cửa kính, tôi bỗng nhớ về những cơn mưa của ngày xa xưa. Ở đây, hình như mưa lạnh và buồn hơn; còn ở quê tôi, Mỹ Tho, mưa mang theo mùi phù sa, mùi lá dừa, mưa đưa tiếng cười trẻ con rộn rã về với những mái tranh. Mỗi giọt mưa rơi trên mái lá như một lời ru, nhắc nhớ những buổi cơm chiều từ bàn tay Ngoại, khi nồi cá kho tộ sôi riu riu thật vui tai, khi tô canh chua bốc khói hòa lẫn mùi thơm dìu dịu của ngò om. Tôi nhắm mắt, hít thật sâu và thấy mình như trở về một không gian cũ kỹ mà ấm áp, ngập tràn hạnh phúc đơn sơ qua dáng đi siêu vẹo, còm cõi của Ngoại tôi.
Tôi vẫn tin rằng, sự chia rẽ trong một cộng đồng, dù đau đớn và kéo dài đến đâu, cũng chỉ là một giai đoạn mang tính tạm thời trong tiến trình phát triển của xã hội. Bởi lẽ, thời gian luôn là yếu tố có khả năng gạn lọc những gì tiêu cực, cực đoan và phi lý. Mọi thứ sẽ dần lắng xuống, những mâu thuẫn, hiểu lầm, khác biệt sẽ được sàng lọc như lớp phù sa được nước lũ cuốn đi, để lại những giá trị chung làm nền tảng kết nối con người với nhau.
Mỗi năm tới ngày này, lòng tôi dâng lên một cảm giác vừa bùi ngùi, vừa ấm áp. Đó là ngày giỗ ông Nội chồng. Một ngày mà không chỉ riêng gia đình nhỏ của tôi mà cả đại gia đình, xem như một ngày sum họp quan trọng. Dẫu Ông đã đi xa nhiều năm, hình ảnh kỷ niệm, và tình thương của Ông vẫn còn hiện diện, trong từng nhà, trong từng câu chuyện được con cháu nhắc lại. Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình truyền thống đạo Công Giáo, gia đình nội của tôi có một Linh Mục, gia đình ngoại có ba Linh Mục, chị ruột nữ tu dòng Saint Paul, họ suốt đời tận hiến cho Chúa và tha nhân. Đó là niềm hãnh diện không chỉ cho gia đình mà còn cho họ hàng, thân quen. Trong khi đó, gia đình chồng tôi, từ bao đời gìn giữ đạo thờ cúng tổ tiên. Đặc biệt con trai và cháu ngoại của ông anh chồng, một là Đại Đức trụ trì chùa An Cựu, và một là Đại Đức giảng dạy tu viện Phật giáo ở Florida...
Seldon Lake State Park là cánh rừng còn nhiều hoang sơ của Houston, tiểu bang Texas (TX), rộng 2,800 mẫu Anh. Khu rừng mênh mông này đã được chính quyền TX xây dựng từ thế chiến thứ 2, là nơi dân địa phương tới câu cá trên những hồ nước thiên nhiên rộng lớn. Từ năm 1975, những hồ này trở thành khu rừng công viên tiểu bang (State Park). Về khu rừng tiểu bang Seldon (Seldon Lake State Park), chính phủ đang cố công gây dựng lại khu rừng bị bỏ hoang dã thành công viên tiểu bang. Họ tìm trồng lại những giống cây của Texas đã từ lâu bị biến mất. Nuôi trong tự nhiên những nai, thỏ, cò, vạc, những giống chim muông như thời hoang dã.
Sáng cuối tuần, trời trong xanh, nắng rải vàng khắp những hàng cây dọc bãi đậu xe trước khu chợ Á Đông. Bố chở mẹ và tôi đến quán phở quen thuộc trong khu thương xá. Quán nhỏ, treo vài tấm tranh phố xưa, lúc nào cũng ồn ào tiếng nói cười của những người Việt xa quê. Chúng tôi ngồi chung một bàn, bát phở nghi ngút khói. Bố thong thả nhấp cà phê, thỉnh thoảng pha trò làm mẹ bật cười, còn tôi cũng cười theo, thấy lòng mình ấm áp. Hạnh phúc, đôi khi rất bình thường và gần gũi. Ăn xong, bố để hai mẹ con xuống siêu thị rồi ngồi chờ ngoài xe, mở YouTube, mở báo online xem tin tức. Bố lúc nào cũng say mê nghe ngóng tình hình nước Mỹ hằng ngày, như là một chính trị gia, hay một công dân yêu nước thực thụ.
Thông là loại cây thường không mọc ở nơi đồng bằng trù phú, nơi mưa thuận gió hòa. Nó được gieo vào giữa sỏi đá khô cằn, chịu dãi dầu gió tuyết, nắng gắt hay bão giông. Vậy mà, năm tháng trôi qua, thân nó vẫn vươn cao, ngọn lá xanh biếc, đứng hiên ngang giữa đất trời. Người xưa thường dùng hình ảnh cây thông để nói về sự kiên cường, bất khuất, không cúi đầu trước nghịch cảnh. Những khi gặp phải những khó khăn, đối mặt với những thử thách, tôi lại nhìn thấy gia đình tôi, và đặc biệt Ba tôi, một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, trong hình ảnh những cây thông ấy. Lịch sử nghiệt ngã đã khiến đất nước tôi rơi vào tay cộng sản, người dân quê tôi bị đọa đày. Nước mất thì nhà tan nhưng nhờ niềm tin vào Thiên Chúa, chúng tôi đã đứng vững, đã vươn lên, và đã tìm thấy một bầu trời mới để tiếp tục sống và phụng sự.
Nhạc sĩ Cung Tiến