Hôm nay,  

Theo Dòng Lịch Sử

18/04/202500:00:00(Xem: 3196)

Theo dong lich su
Ảnh: Lễ Ra Trường của các sinh viên sĩ quan năm Thứ 4 của trường OSU, ngày 02 tháng 03 năm 2025.
 Tác giả từng nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, đã sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm, hiện là cư dân Dayton, Ohio.
 
***
      
 
Chiếc xe bus “Greyhound” lăn bánh chầm chậm vào bến ở Sacramento, miền Bắc của tiểu bang California vào một buổi chiều thu năm 1999 rồi từ từ dừng lại. Tôi bừng tỉnh khi đang ngồi quan sát cảnh vật bên ngoài, bởi mọi thứ, mọi người ở đây đều lạ lẫm đối với tôi vì tôi chỉ mới tới định cư tại quốc gia này có hai tháng thôi! Đứng dậy, vác chiếc ba lô đang để dưới gầm ghế lên vai tôi bước theo những người đi trước rời khỏi xe.
 
Vừa đặt chân xuống đất và ngó dáo dác xung quanh thì một người đàn ông trờ tới gần chỉ mặt tôi và ngoắc, đoạn quay lưng vội vã bước đi. Dù chỉ thoáng qua và xa nhau từ năm 1979 tới nay nhưng tôi vẫn nhận ra ngay người ấy là chú Tám của tôi, tôi lập tức lẽo đẽo theo sau.
 
Xa xa đằng kia, có hai người đàn ông nữa đang đứng đợi chờ mà nhìn sơ qua tôi biết đó là bác Hai và chú Bảy của tôi liền. Không vồn vã thông thường như đàn bà, những người đàn ông nhà tôi vẫn bình thản, chỉ mỉm cười như vài ngày chưa thấy nhau!
 
Chú Bảy nhìn tôi từ đầu đến chân, lắc đầu, vỗ vai, cười nụ:
 
- Mẹ…gì mà râu ria xồm xoàm, bụi đời dữ vậy nè?
 
Đoạn bốn người kéo nhau ra xe, về nhà. Chiều đó trong lúc ông anh, bà chị con bác Hai tôi lo nấu nướng đãi tôi ở dưới bếp thì bốn người đàn ông chúng tôi ngồi quây quần nơi phòng khách hàn huyên. Bác và mấy chú tôi chỉ lắc đầu nghe quãng đời gian truân với hành trình vượt biển tìm tự do của tôi mà chẳng biết nói sao hơn là thở dài ngán ngẫm!
 
Hai mươi lần vượt biên, ba lần bị bắt với gần sáu năm tù ở các trại cải tạo và hơn mười năm chết dí nơi trại tị nạn Phi Luật Tân đã khiến tôi từ một chú bé học trò Taberd thơ ngây ngày nào nay trở thành một tay lăn lộn giang hồ, bợm bãi!
 
Ngồi đối diện với chú Bảy, tôi phải nhìn kỹ lắm mới có thể nhận ra được ông nhờ các nét quen thuộc ngày xưa, vì đã gần 25 năm tính từ tháng Tư, 1975 chứ ít ỏi gì? Tôi vẫn nhớ…
 
… Một chiều của ngày 24 hay 25 tháng 04 năm ấy, trong lúc tôi đang đứng trước sân nhà bỗng thấy ba tôi hối hả chạy về, mặt mày vô cùng lo âu. Rồi ông kêu tôi leo lên ngồi sau chiếc xe Honda 67 đàn ông, màu đen của ông và đi lên Gò Vấp tới vòng đai tiếp giáp với phi trường Tân Sơn Nhứt. Đoạn ông giảm ga, cho xe chạy rề rề, men theo đường lộ và gấp gáp tắp vô lề khi thấy chú Bảy tôi đang đứng chờ sẵn bên trong.
 
Ba tôi bảo tôi đứng coi chừng xe, còn ông băng qua vườn rau cải mà dân chúng trồng ven đường để tới sát hàng rào kẽm gai. Tôi không biết ba tôi và chú tôi nói gì nhưng tôi nhớ là tôi chờ ba tôi lâu lắm. Khi hai anh em từ giã, chú tôi giơ tay vẫy vẫy về phía tôi lúc chú bước qua bãi cỏ rộng lớn để vô lại phi trường. Sau khi trở về, ba tôi nhờ một đứa cháu gái là con của người em thứ năm tới nhà của chú Bảy tôi ở gần chợ Thị Nghè để trông coi và giữ nhà. Đó là lần cuối tôi thấy chú Bảy tôi!
 
Năm tôi khoảng chừng hai mươi tuổi, ba tôi mới cho biết là chú tôi làm việc cho cơ quan DAO (The Defense Attache Office) nên được cơ quan này đưa vào phi trường đi di tản cùng vợ con từ mấy ngày trước nhưng chẳng hiểu vì sao đến hôm ấy vẫn còn kẹt lại do đó lúc ba tôi nhận được tin chú tôi nhắn muốn gặp ông qua người quen được ra vô phi trường thì ông lo lắng nhiều là thế. Ông còn cho biết thêm ngày đó chú tôi dặn ba tôi là nếu sau này có bất cứ ai hỏi về chú thì hãy trả lời là chú ấy đã mất tích trong lúc lộn xộn bởi chiến tranh rồi vì trong xóm tôi có một số Việt Cộng nằm vùng đã lộ diện và đang nỗ lực tìm tung tích chú. Đây là lý do chú biệt tăm vì sợ, không dám viết thư liên lạc về nhà suốt nhiều năm dài, nhưng điều này lại khiến cho nhà tôi thắc mắc, lo âu. Đôi khi mọi người lại nghĩ quẩn có thể gia đình chú đã mất trong các đợt pháo kích của cộng sản vào phi trường mấy ngày sau đó rồi cũng nên!
 
Riêng chú Tám tôi thì cũng có thay đổi chút đỉnh nhưng tôi có thể nhớ ra ngay nhờ khoảng thời gian xa cách ngắn hơn. Bởi sau buổi “tan đàn, xẻ nghé” đau thương kia thì độ chừng tối ngày 3 hoặc 4 tháng Năm, 1975 gì đó không nhớ rõ lắm, tôi đạp xe đạp về thăm nhà nội ở Ngã Ba Cây Thị thì thấy chú Tám tôi cùng bác Ba và bác Năm đang ngồi nơi chiếc bàn kê chỗ tấm thổ rộng lớn giữa nhà trên và nhà dưới nói chuyện rôm rả. Đây là hai người con của ông cậu Chín, anh ruột của bà nội tôi ở cạnh bên. Bác ba là đại úy, Trưởng Ban Lãnh Thổ Quân Đoàn, còn bác Năm là trung tá không ảnh của Phòng Nhì Bộ Tổng Tham Mưu, của Việt Nam Cộng Hòa.
 
Cả ba đang bàn luận lung tung, xem xét sự tình buổi giao thời và nhận định mọi việc trước hoàn cảnh mới một cách khá căng thẳng. Và đó là lần sau cùng tôi gặp vì sau đấy cả ba người ra trình diện “học tập cải tạo” rồi bị lừa đi tù suốt nhiều năm dài. Chú Tám tôi thì học trường Quốc Gia Thương Mại nên chỉ là thiếu úy Quân Tiếp Vụ do vậy nhờ có trình độ chuyên môn ông được thả về đầu năm 1978. Tính thời gian thì ông bị tù hơn hai năm nhưng cũng suýt mất mạng trong đợt dịch bệnh tiêu chảy bùng phát dữ dội ở các trại cải tạo trong Nam khiến nhiều sĩ quan bỏ mạng mà tới bây giờ sách sử vẫn còn lưu truyền!
 
Trở về xã hội, sống đời thường nhưng dù có chuyên môn chú Tám tôi vẫn phải chạy vạy khắp nơi mới xin được chân kế toán quèn cho Xí Nghiệp Dệt. Hằng đêm chú ngồi gầm đầu cho đám “Ba Mươi Tháng Tư” lên lớp sỉ vả, chửi bới nhiếc móc, kể lể tội ác với cách mạng, nợ máu với nhân dân. Chú phải nhẫn nhịn ngày bọn công an phường, khóm cùng mấy ông bà tổ trưởng thất học họp xét “trả quyền công dân” trong tủi nhục đắng cay.
 
Biết không sống nổi với tận cùng nỗi khốn nạn của chế độ, chú đã theo gia đình nhà vợ; vốn là người Hoa ở Biên Hòa, đóng tiền vượt biển ngay khi phong trào vượt biên bán chính thức của Hoa Kiều nổ ra. Nhà vợ của chú Tám tôi dù đã bị đánh “Tư Sản Mại Bản” tơi tả nhưng vẫn rất hay là còn dấu được một số vàng đủ để đóng cho hơn cả mười người trốn thoát.
 
Cuộc hải trình của chú vào tháng Năm, 1979, đầy gian nan. Theo lời chú viết trong thư gửi về kể lại thì ngày ấy vợ chú đau bụng dữ dội và sanh con ngay trên biển, may mắn là nhờ trên tàu có một ông bác sĩ sản khoa, giúp đỡ đẻ với dụng cụ chỉ có một chiếc dao lam mong manh như số phận mọi người lúc ấy mà thôi. Sau đó, tàu này vô tới Mã Lai thì bị đuổi ra, phải chạy lên Hồng Kông nhưng không được cho vào. Đang lúc còn lênh đênh giữa biển khơi chưa biết phải đi đâu thì tàu của chú được một tàu hàng cứu vớt gửi vô Mã Lai lại. Tính ra họ đã ở ngoài đại dương gần cả tháng trời mới được cập bến!
 
Vài tháng sau thì gia đình chú về Ý định cư vì theo luật hàng hải quốc tế thì trẻ em sanh trên biển phải lấy quốc tịch của vị thuyền trưởng của tàu nào cứu vớt.
 
Năm 1980, thì do hoàn cảnh tôi đã về nhà nội tôi ở và vào một buổi trưa hè nắng gắt, tôi ngồi trước hiên nhà hóng gió vì hôm ấy cúp điện, trong nhà nóng quá thì bất ngờ ông đưa thư ghé lại, đập cửa cổng la to:
 
- Trần Văn N. có thư. Có thư ngoại quốc đây!
 
Nghe gọi tên ba mình, tôi lật đật chạy ra. Tưởng là thư của chú Tám tôi, nhưng khi thấy thư ghi địa chỉ cũ trước 1975 với nhiều đường vẽ hướng dẫn tìm nhà chằng chịt trên phong thư, tôi ngạc nhiên lật ra mặt sau xem tên người gửi và mừng rỡ phóng vô nhà lấy tiền thưởng cho bác đưa thư, đồng thời miệng hét lớn:
 
- Chú Bảy! Thư chú Bảy ba ơi! Thư ở Mỹ, thư ở Mỹ!
 
Từ trong phòng ba tôi và cô Út tôi cũng hớt hải chạy ra. Ba tôi cầm lấy bức thư, nhắc nhỏ:
 
- Suỵt, nín! Thư ở Mỹ mà còn la um sùm, điên hả mậy?
 
Tôi nhìn hàng chữ chú tôi ghi bên dưới bản đồ chỉ dẫn mà phì cười và còn nhớ mãi tới bây giờ “Đây là địa chỉ cũ gần chợ Ngã ba Cây thị. Nhà ở trong con hẻm, sát sân banh Lê Văn Duyệt, mong anh chị đưa thư cố gắng giùm. Gia đình xin hậu tạ!”
 
Thế là nhờ vậy mà hai chú tôi liên lạc được với nhau. Rồi chú Bảy tôi làm giấy tờ cho chú Tám tôi sang Mỹ. Tuy nhiên dù là sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, nhưng vì chú Tám tôi đã tái định cư ở đệ tam quốc gia nên Mỹ từ chối cho đi theo diện tị nạn và chú Bảy tôi buộc lòng phải làm hồ sơ bảo lãnh anh em do vậy mà tới cuối năm 1988 chú Tám tôi mới đặt chân lên đất Mỹ được!
 
Trong thời gian này thì hai bác của tôi bị đưa ra giam cầm ngoài miền Bắc. Bác Ba tôi bị nhốt ở trại Thanh Hóa tới giữa năm 1980 mới được tha về. Còn bác Năm thì ở Vĩnh Phú, sau đó được chuyển về Z 30D, Hàm Tân, Thuận Hải cho mãi tới gần cuối năm 1986 mới được thả ra.
 
Khi bang giao giữa hai chính phủ Việt Nam cộng sản với Mỹ được cải thiện và nhằm chấm dứt phong trào tị nạn bằng đường biển, họ đã đẩy mạnh chương trình gia đình đoàn tụ được biết như là ODP, nhân viên Sở Mỹ, tái định cư cựu tù cải tạo ở Hoa Kỳ qua con đường HO…thì bác Hai tôi nhờ làm việc cho hãng xăng Esso nhiều năm trước 1975 nên đã nộp đơn đi diện nhân viên Sở Mỹ và lên đường vào năm 1990. Bác Năm thì dẫn vợ con sang Hoa Kỳ, định cư ở Philadelphia, PA, theo diện HO vào năm 1991!
 
Giờ đây không ai phủ nhận được rằng Hoa Kỳ và Việt Nam đã có một “khúc chung lịch sử chiến tranh!” Khi nói tới Hoa Kỳ về chiến tranh cận đại là người ta nghĩ ngay đến Việt Nam; một quốc gia nhỏ bé bên kia bờ đại dương, đã khiến Mỹ gánh lấy sự thất bại nhục nhã, cay đắng phũ phàng. Và ngược lại, đối với người Việt yêu chuộng tự do thì mỗi lần nhắc tới Ngày 30 Tháng Tư năm 1975 là trong lòng người ta lại dấy lên mối oán hờn bị bỏ rơi, bị đồng minh phản bội đưa tới việc thua trận trong tan tác, ê chề!
 
Hôm nay, gần năm mươi năm ngày mất miền Nam Việt Nam lại sắp tới, biết bao bậc tiền bối, ông bà cha chú, hy sinh tuổi thanh xuân để bảo vệ quê hương đất nước đã ra người thiên cổ. Tôi lúc này đã thành một ông già hơn sáu mươi lăm tuổi, tóc bạc lưng còng, trải qua bao dâu bể ngồi nhìn lại lịch sử, suy ngẫm về con đường để chấm dứt một đời ô nhục ngay chính trên quê hương mình mà người Việt lưu vong khắp nơi phải đi qua kiếp nạn với bao nhọc nhằn, hy sinh tất cả cũng chỉ là vì hai chữ tự do!
 
Tôi thấm thía nỗi uất nhục ấy bởi trong gia đình họ hàng nhà tôi đã có đầy đủ người kinh qua những giai đoạn bi thương của biến cố lịch sử oan nghiệt đó từ chuyện di tản, tù đày, đến vượt biên bán chính thức, vượt biển quên thân, rồi định cư diện nhân viên Sở Mỹ, HO…
 
Thời hậu vận, tôi may mắn được sống thanh bình ở đây với một gia đình yên ấm và có đứa con trai đang được đào tạo trong lực lượng sinh viên sĩ quan trừ bị của binh chủng Không Quân Hoa Kỳ (AFROTC). Tương lai của nước Mỹ là tương lai của con tôi! Lịch sử của nước Mỹ ngày mai sẽ là lịch sử của con tôi! Đây là điều mà không ai có thể tranh cãi được nếu dõi theo dòng lịch sử! Thế hệ người Mỹ gốc Việt nơi này sẽ là nhịp cầu nối liền lịch sử của hai dân tộc để một mai hy vọng cả người Mỹ lẫn người Việt tự do không còn cắn đắng với nhau nữa mà có thể cảm thông với nhau trong nỗi mất mát chung và bước qua vũng tối lịch sử, hướng tới tương lai một cách tốt đẹp hơn!
 
Dù thế nào đi chăng nữa thì người Việt ở Hoa Kỳ cũng phải cám ơn đất nước Mỹ, nhân dân Mỹ, chính phủ Mỹ qua nhiều thời kỳ; trừ một vài người có tính khí thất thường, tinh thần bất ổn, tâm sinh lý rối loạn, đã cho họ một cơ hội sống còn!
 
Thank you America!
Thank you American people!
Thank you American government!
God bless you all !
 
Cám ơn Nước Mỹ!
Cám ơn con người và chính phủ Hoa Kỳ!
Chúc lành cho tất cả!
 
Triều Phong (TPN)
 
Ohio, Lập Xuân 2025
Mùa Quốc Hận năm thứ năm mươi.
 

Ý kiến bạn đọc
29/04/202511:13:08
Khách
Cám ơn ý kiến khích lệ của chị Mimi.
Triều Phong
28/04/202521:00:41
Khách
Cảm ơn tác giả một bài viết hay.
27/04/202501:31:22
Khách
Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị và Bộ Thông Tin VNCH cũng có lỗi lớn khi không giáo dục thông tin cho quân cán chánh VNCH về cách đối xử dã man của CS với tù hàng binh VNCH. Các tù binh VNCH trở về đều kể lại bị bỏ đói. Năm 1972, phi cơ thiếu tá KQ Nguyễn Du bị bắn rơi tại Quảng Trị ông bị CS trói vào cột bắt dân xẻo thịt cho đến chết. Tin tức về CS xẻo thịt tù binh VNCH một số sĩ quan phi công biết nhưng Tổng Cục CTCT và Bộ Thông Tin VNCH không cho quân cán chánh học tập về cách đối xử dã man của CS với tù binh để họ biết và tránh bị bắt làm tù binh hay tự ý trình diện cải tạo. Ða số sĩ quan VNCH sau 30-4-75 tin CS khoan hồng nên khi thất trận đa số không tìm cách trốn tránh đi ra nuớc ngoài mà ở lại trình diện đi cải tạo. Kết quả là họ bị đối xử tàn tệ, bị bỏ đói, sỉ vả, chửi bới nhiếc móc nợ máu với nhân dân hay bị đánh chết trong tù. Phía CS thì kỹ luỡng hơn và CS tuyên truyền là tất cả lính CS bị bắt sẽ bị giết, do đó đa số quân CS đánh đến chết không chịu hàng.
Nếu TC CTCT và Bộ Thông Tin cảnh cáo quân cán chánh là CS sẽ xẻo thịt các thành phần bị họ coi là có nợ máu thì đa số sĩ quan cấp tá, tổng trừ bị, An Ninh, Cảnh sát đã tìm cách ra đi sau khi có lệnh đầu hàng, những nguời kẹt lại sẽ trốn tránh cải tạo sống lẩn lút trên vùng kinh tế mới hay như Lý Tống đi bộ đến Thái Lan và Mã Lai, không ai dại dột trình diện đi cải tạo để chết.
22/04/202513:26:24
Khách
Chào anh Triều Phong,
Sau 50 năm tôi vẫn còn nhức nhối khi biết có những tấm guơng hy sinh bản thân để cứu nguời di tản mà lãnh tụ VNCH không làm và họ đã từ chối cơ hội cứu giúp hàng trăm ngàn nguời. Khi toà đại sứ Mỹ di tản thì Ðại Sứ Martin từ chối lên máy bay cho đến giờ phút chót vì ông biết sau khi ông lên máy bay thì Mỹ không còn cho trực thăng cứu đám dân ngu cu đen bản điạ nguời Việt nữa. TT Ford phải la lệnh TQLC Mỹ áp giải ông mới lên tàu, và phải bỏ lại 400 nguời. TT DVM chỉ cho Mỹ hạn 24 giờ để di tản là quá nghiệt ngã cố ý không cho Mỹ cứu nguời VN. Vì vậy dù quốc hội Mỹ chấp thuận cho 150 ngàn nguời Việt di tản nhưng chỉ có 120 ngàn đuợc di tản ngày 30-4-75. Trong cuộc rút lui khỏi đồi Charlie cuả Dù năm 1972, cố vấn Duffy cũng từ chối lên máy bay truớc nhuờng chổ cho lính Dù vì ông biết nếu ông lên máy bay sớm thì trực thăng không trở lại di tản quân Dù. Năm 1975 Hải quân VNCH cũng di tản không chánh thức đuợc 30 ngàn nguời ra biển. Dù sau khi TT Minh đầu hàng giải tán quân đội, không còn ai chỉ huy ai và không ai còn lãnh luơng nhưng Hải Quân từ thuỷ thủ đến Ðô Ðốc đều tuân lệnh làm việc chu đáo điều hành tàu, phục vụ thức ăn nuớc uống chăm sóc sức khoẻ cho 30 ngàn nguời di tản cho đến khi cập bến Subic Bay.
Các lãnh tụ VNCH năm 1975 lên máy bay truớc, khi đến đuợc nuớc ngoài thì không ai tham gia vận động các hoạt động cứu nguời vuợt biên hay xin bảo lãnh tù cải tạo, Thuơng Phế Binh VNCH. Các cuộc cứu nguời tại Tàu Cap Anamur, tàu Ille De Lumiere, chuơng trình HO, BPSOS, Thuơng Phế Binh VNCH, vv.. không co' ai trong cấp lãnh đạo VNCH tham dự dù theo sách Decent Interval của Frank Snepp thì họ đem tiền của ra nuớc ngoài rất nhiều. Truớc 1975 thì các ông này tranh giành quyền lực thậm chí giết đối thủ để đuợc lên cầm quyền, đên khi đất nuớc lâm nguy thì không ai chịu đứng ra cứu dân di tản. Hồi ký Ðại Tá Trịnh Tiếu có ghi là sau khi tỉnh truởng Ban Mê Thuột bị VC bắt năm 1975, ông đuợc bổ nhiệm làm Tỉnh Truởng để tái chiếm BMT nhưng vì không chịu đóng tiền hối lộ 2 triệu đồng nên hai ngày sau Ðại Tá Lý đuợc bổ nhiệm thay ông. Trong sách Triệt Thoái Cao Nguyên Phạm Huấn cũng viết giá chức tỉnh truởng là 10 triệu đồng đóng cho bà Thiệu bà Khiêm. Những kẻ khi đất nuớc lâm nguy CS chưa đánh đã ra lệnh chạy hay nhanh chóng đầu hàng đã gây tang thuơng cho hàng triệu nguời. Tại sao họ không có chút luơng tâm như đại úy cố vấn Duffy, đại sứ Martin chịu nhuờng chổ để di tản quân dân truớc?
21/04/202501:33:08
Khách
Chào anh PhaoNg,
Cám ơn các ý kiến của anh nhưng Phong nghĩ chuyện anh nói khó thực hiện lắm anh. Bởi việc qua rồi thì nói dễ nhưng Phong còn nhớ tình hinh lúc ấy ngày xưa rối răm lắm anh. Trong ngày tàn cuộc chiến, hổn quan hổn quân, mạnh ai nấy chạy, nhà ai nấy lo. Chính quyền cao cấp, tướng tá lo bồng trống con cái chay trước, có ai nghĩ đến lính tráng, quê hương, dân dã đâu anh? Mỹ thì lo di tản nhân viên cuả họ khi đó còn chưa xong nên lòng dạ đâu mà nghĩ tới đám dân ngu cu đen bản điạ nữa anh.
20/04/202516:43:25
Khách
Cái nhục nhã của VNCH làm cho hàng triệu nguời không kịp di tản để vào cải tạo hay đi kinh tế mới là quá vội đầu hàng khi VNCH vẫn còn một nửa lãnh thổ và quân đội. Thủ tuớng Anh Winston Churchill sau lần di tản bi thảm tại Dunkirk đã lên tiếng một cách anh hùng tại quốc hội Anh ngày 4 tháng 6 năm 1940 như sau:
“We shall go on to the end. We shall fight on the seas and oceans... We shall defend our country, whatever the cost may bẹ We shall fight on the beaches, we shall fight on the landing ground, whe shall fight in the fields and in the streets, we shall fight in the hills; we shall not surrender. We shall never surrender...”
Nhìn thấy cac lãnh tụ Anh, Ukraine, và ngay cả Kampuchia trong cơn nguy khốn vẫn anh hùng thì mình hiểu tại sao dư luận thế giới tuy không chê bai nguời lính VNCH lại khinh thuờng lãnh tụ VNCH.
20/04/202512:56:04
Khách
Nhờ thuơng thuyết qua HÐ Geneve 1954, quân đội quốc gia VN, quân Pháp, công chức, và dân Bắc di cư rút vào Nam năm 1954 trong vòng trật tự, không bị chận đánh. Sau HÐ Paris 1973, nếu TT Thiệu chịu thuơng thuyết với CS rút lui khỏi Quân khu I và II thì cac đơn vị VNCH và dân đã đuợc di tản an toàn. Chủ truơng 4 không của TT Thiệu không dựa vào thực tế là quân VNCH không có hoả lực của quân đội Mỹ, Úc, Ðại Hàn, không thể giữ lãnh thổ. Những sai lầm do lệnh triệt thoái cao nguyên và Quân Khu I bỏ rơi hàng trăm ngàn quân và hàng triệu nguời dân cho CS đã làm mất nuớc nhưng các ông chóp bu di tản tài sản và gia đình qua Mỹ Pháp an toàn, chỉ có nguời lính và dân chúng bị kẹt lại chịu hậu quả. Từ một miền Nam toàn vẹn thanh bình, không mất một xã năm 1963, các ông lãnh đạo quậy nát làm miền Nam gay hổn loạn rồi khi đất nuớc lâm nguy năm 1975 các ông bỏ thuộc cấp và dân chạy lấy thân, không lo cho dân di tản.
Nếu chánh phủ TT Duơng Văn Minh ngày 29-4 chịu bỏ Saigòn đi về Cần Thơ hay Phú Quốc theo kiểu Tuởng Giới Thạch chạy qua Ðài Loan, dùng trì hoãn để cho dân có thêm thì giờ di tản thì gia đình tác giả Triều Phong đã đi di tản hết. Chỉ cho nguời Mỹ 24 giờ để di tản là giết dân mình vì nhiều nguời bị kẹt lại.
Ca dao: Dầu xây chín bậc phù đồ, Sao bằng làm phuớc cứu cho một nguời . Cơ hội làm phuớc cho hàng triệu nguời bị chánh phủ bỏ qua.
19/04/202518:26:24
Khách
Thời Tam Quốc, đối đầu với Tào Tháo gian hùng thì có nguời tài đức như Lưu Bị và mưu luợc như Tôn Quyền. Khi Lưu Bị bị Tào Tháo tiến đánh, Lưu Bị đem dân chúng và quân rút về Tân Dã không kịp đem theo vợ con. Truơng Phi đoạn hậu chận quân Tào tại cầu Truờng Bản cho dân đi qua. Tuớng Triệu Tử Long phai liều chết phá vòng quân đem vợ con Lưu Bị thoát về . Nguời đời sau khen cái tài đức của Lưu Bị. Khi TT Thiệu ra lệnh bắt tuớng Phú bỏ cao nguyên, di tản chủ lực quân và BÐQ còn bỏ lại ÐPQ, Nghĩa Quân tại các tiểu khu, chi khu. Khi tuớng Phú thắc mắc về 200 ngàn dân thì TT Thiệu trả lời "thì cứ để họ cho thằng Cộng Sản" . Khi dân chúng biết đuợc họ kéo nhau đi theo gây hổn loạn. Tuớng Phú di tản hơn 200 ngàn quân dân tại Cao Nguyên 1975 đuợc ví như Lưu Bị dẫn quân dân chạy qua Tân Dã. Nhưng tại Quân Khi I, cac tuớng lãnh đưa vợ con đi truớc rồi sau đó bỏ thuộc cấp chạy truớc . Ngày 26 tháng 3, 1975 hai tuớng Thi và Ðiềm bỏ quân chạy truớc, 13 ngàn quân VNCH (SD 1 BB + TQLC) hết đạn bị du kích VC bắt tại Thuắn An. Ba ngày sau, 9 tuớng lãnh QK I di tản ra tàu Hải quân sớm bỏ lại gần một trăm ngàn quân tinh nhuệ như rắn mất đầu, CS chưa đánh đã tan hàng. Sư đoàn TQLC với 14 ngàn quân bị tan rã , bỏ hết súng đạn về đến Sài Gòn đuợc khoảng 4 ngàn. Chỉ vì cấp chỉ huy quân khu I thiếu tài đức mà du kích VC trong 4 ngày bắt sống 80 ngàn quân VNCH với đầy đủ súng đạn hàng trăm máy bay và chiến xa. Khi co' đám cháy rừng hay bão tố sắp đến thì chánh phủ phải bắt dân di tản để tránh hoạ. CS đến Sàigòn tai hại nguy hiểm hơn cháy rừng bão tố nhưng ngày 29-4-75 TT Duơng Văn Minh lại lên đài Phát thanh SG kêu goi đồng bào đừng bỏ nuớc mà đi. Cựu Phó TT Kỳ đến Tân Sa Châu khuyên giáo dân ở lại VN chiến đấu vì ông nói đi sang Mỹ không có cà pháo mắm tôm để ăn. Rồi ông Kỳ lén bay ra tàu Mỹ ngày 30-4. Sau khi CS chiếm miền Nam, ôn g Minh lại tuyên bố với báo chí TV Mỹ là ông sung suớng đuợc làm công dân của nuớc VN độc lập thống nhất. Hàng triệu nguời VN tin vào lời của TT Minh và PTT Kỳ ở lại VN tron g khi đó ông Minh và ông Kỳ lén bỏ VN đi qua Pháp và Mỹ. Có bao nhiêu nguời tin vào những lời luờng gạt này rồi chết trong trại cải tạo hay biển cả khi vuợt biên? Làm chánh trị mà không biết gì về CS luờng gạt dân thật là tai hại. Phải chi các ông lãnh tụ VNCH biết di tản quân dân tránh CS như Lưu Bị thì đã cứu đuợc hàng triệu nguời khỏi bị cải tạo hay chết trên biển.
19/04/202514:24:10
Khách
Năm 1954, nguời Pháp thoả thuận với CS thời hạn 300 ngày để di tản hơn 1 triệu nguời và quân đội vào Nam trong trật tự. Ngày 29-4- 1975, TT VNCH Duơng Văn Minh ra lệnh nguời Mỹ phải ra đi trong vòng 24 giờ, ra lệnh quân cán chánh ở lại giữ đất đai rồi ra lệnh bàn giao cho CS thay vì di tản. Thời hạn eo hẹp chỉ 24 giờ nên cuộc di tản hổn loạn, nhiều nguời bị Mỹ bỏ lại trong toà đại sứ, nhân viên VN tại DAO và tình báo Mỹ phải ở lại đến giờ cuối cùng không di tản kịp, nguời tình của CIA Frank Snepp tự vận vì không đi đuợc, và chú bác gia đình tác giả Triều Phong bị kẹt lại. Ông DVM sau này nói là Ðại Sứ Mỹ yêu cầu ong Minh ra lệnh trục xuất. Ðầu hàng vô điều kiện thì lúc nào cũng đuợc vì VNCH còn một nửa lãnh thổ nếu rút lui về Cần Thơ hay Phú Quốc thì kéo dài đuợc thời gian. Nếu ông DVMinh có lòng cứu quân dân mình thì cho thêm hạn Mỹ rút lui chẳng hạn 30 ngày, đưa chánh phủ xuống Cần Thơ thì đã giúp đuợc hàng triệu quân cán chánh có thì giờ ra đi. Trong khi các hội đoàn hết mình cứu dân tị nạn như BPOS, TS N Ð Thắng, ông Nam Lộc, bà Khúc Minh Thơ, tàu Cap Anamur, Illle De Lumiere, vv.. thì các ông lãnh tụ VNCH năm 1975 chủ truơng "thì cứ cho thằng CS số dân đó" tàn nnhẫn bỏ rơi quân dân vào địa ngục, hàng triệu nguời bị kẹt lại để đi tù cải tạo. Ðiều đáng tiếc là ngày nay vẫn còn nhiều nguời vẫn còn ca tụng hai ông Tổng Thống tàn nhẫn bỏ rơi hàng triệu quân dân "cho thằng CS". Như Đinh Từ Thức nói năm 1975 là năm nguời Việt tàn sát nguời Việt vì quân đội Mỹ đã rút khỏi VN từ năm 1973 chỉ còn nguời Việt. Cái nghiệp của nguời VN quá nặng xui khiến nguời giàu bị bên thắng cuộc nghèo đói ngu dốt cai trị. Duơng Thu Huơng than khóc, Huy Ðức ăn năn.
19/04/202513:43:13
Khách
Nguời VN cám ơn nuớc Mỹ cứu giúp nguời tị nạn nhưng đáng tiếc nguời Mỹ không chu đáo bằng nguời Pháp khi ra đi khỏi VN. Sau thế chiến II, kinh tế Pháp kiệt quệ nhưng nguời Pháp vẫn cố gắng giữ VN dù thiếu súng đạn phuơng tiện. Khi bị thua to tại Ðiện Biên Phủ thì nguời Pháp chọn giải pháp chia đôi VN tại vĩ tuyến 17, hai bên đều rút quân trả tù binh, nguời Pháp rút khỏi miền Bắc, Việt Minh rút khỏi miền Nam. Hai bên đồng ý một thời gian 300 ngày để di tản quân dân hơn 1 triệu nguời vào Nam và VM tập kết ra Bắc. Pháp cho tàu thuỷ và máy bay đưa dân vào Nam, và tàu Mỹ cũng tham gia di tản dân chúng vào Nam. Nguời Mỹ thì chọn giải pháp ngưng bắn da beo, chỉ có quân Mỹ và đồng minh rút quân về nuoc, quân miền Bắc ở lại Nam VN, không có thỏa thuận với CS Lào, miền Nam hạn chế nhận viện trợ 1 đổi 1, nhưng CS đuợc tự do tiếp tế và CS không bị hạn chế viện trợ. Hai bên trao trả tù binh nhưng phía CS không trả tù binh bị bắt tại Lào, và không trả biệt kích. Ðến khi Mỹ di tản thì không có thời gian 300 ngày để di tản, và tàu Mỹ và đồng minh không ghé cảng VN để đón dân di tản. Chánh phủ VNCH cũng không muốn di tản dân VN khi thoả thuận đầu hàng CS theo câu nói tàn nhẫn của TT Thiệu "thi` cho thằng Cộng Sản số dân đó" tại quân khu II . Khi quân VNCH rút lui tại QK I và QK II, nguời dân chen chúc nhau di tản, nhưng ngày 30-4-75 vì chánh phủ không chánh thức di tản nên quân dân không đi theo, chỉ có 120 ngàn may mắn thoát đuợc. Chánh phủ Mỹ và VNCH không chịu học thành công của nguời Pháp khi họ đuợc thời hạn 300 ngày để ai muốn ra đi thì đuợc ra đi. Tổ chức di tản ra nuớc ngoài không khó lắm, một ngư dân có tàu đánh cá dài 20 mét là đi đuợc mà mấy ông lãnh đạo VNCH trong các bộ phủ không chịu làm để cứu quân dân. Năm 1975 miền Nam co hàng triệu ngư dân, hàng ngàn tàu hải quân, quân vận mà chỉ đưa đuợc 120 ngàn lén lút ra đi thì mất một cơ hội giải thoát hàng triệu gia đình quân cán chánh thóat khỏi trả thù trừng phạt của CS. Cái đau khổ của quân dân miền Nam sau khi đầu hàng là do chính cấp lãnh đạo VNCH không biết di tản cứu quân dân miền Nam như nguời Pháp đã làm năm 1954. Những nguời lãnh đạo VNCH cũng không hề xin CS trả tự do cho tù cải tạo, hay vận động quốc tế cứu nguời tị nạn, và tham gia vận đô,ng cho định cư tù cải tạo HO tại Mỹ . Công lao cứu nguời tị nạn và HO là do cac hội BPSOS, TS Thắng, ông Nam Lộc, bà Khúc Minh Thơ, và vô số các hội đoàn dân tị nạn. Ðừng đổ lỗi cho Mỹ vì chính mình làm hại mình. Nếu những nguời lãnh dạo VNCH tổ chức di tản quân dân ra biển rồi trì hoãn ngày đầu hàng thì hàng triệu nguời đã đuợc đi ra nuớc ngoài định cư, không phải chờ đdến sau 1980 hay 1990 mới có hàng triệu nguời ra đi. Ðáng tiếc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 177,275
Trời mới hửng sáng, bà Năm đã trở dậy. Căn nhà im lặng như tờ, giờ này mọi người còn đang ngủ cả, bà lặng lẽ đến bên bàn thờ, thắp nhang cho chồng. Tay run run, nhưng bà vẫn cố gắng không để tàn nhang rơi xuống thảm. Con dâu đã dặn bà chỉ được dùng nhang điện, nến điện, nó sợ mùi nhang và sợ tàn nhang làm hư tấm thảm đắt tiền. Nhưng bà nghĩ không có hương khói, người chết biết đường đâu mà về? Bà chỉ an tâm, sung sướng khi có ông bên cạnh, mặc dù ông bây giờ chỉ là một hồn ma. Hương khói làm ấm lòng bà, ấm lòng cả người đã khuất, bà không thể để bàn thờ chồng hương khói lạnh tanh....
Sau mấy ngày đi chơi thăm các thắng cảnh nổi tiếng ở thành phố, ăn fast food và các món ăn Ý, Pháp, Mexico… hôm nay ba mẹ con quyết định tìm nhà hàng Việt Nam vì thèm bữa cơm có canh chua, cá kho tộ, rau muống xào tỏi. Từ nơi khách sạn, Quỳnh cùng hai con đi bộ gần 3 blocks đường đến một nhà hàng Việt Nam rộng lớn và nổi tiếng với các món ăn đậm đà hương vị ẩm thực Việt. Ba mẹ con vừa đói vừa mệt nên hào hứng ăn ngon lành, hết sạch, chuẩn bị món tráng miệng và sau đó chương trình là sẽ đi dạo bờ biển đón gió đêm. Trong lúc hai con xúm lại xem lại các hình chụp trên điện thoại, Quỳnh cũng rảnh rang đưa mắt ngắm nghía xung quanh tiệm thì bất chợt như có linh tính mách bảo, nàng nhận ra có một bóng dáng rất quen thuộc đang đi ngang phía trước hồ cá trong tiệm, cùng với vài người nữa, đang tìm vào ngồi ở chiếc bàn phía bên hông cửa nhà hàng, đối diện xéo với bàn của nàng.
Nhìn lại cuộc sống của mình trong bao năm qua tôi phải thú thực rằng giấc mơ Mỹ quốc của mình đã đạt được nhiều hơn những gì mình đã từng ao ước rất nhiều. Đúng nửa thế kỷ, tròn 50 năm đã trôi qua từ cái ngày tôi có giấc mơ Mỹ quốc nhỏ nhoi nhất, nếu có ai hỏi như thế tôi có còn ao ước hay còn một giấc mơ Mỹ quốc nào nữa không thì tôi xin trả lời rằng có. Có điều giấc mơ Mỹ quốc hiện tại của tôi không còn là giấc mơ cho riêng tôi nữa mà là giấc mơ cho các thế hệ con cháu của mình. Tôi mơ đến một nước Mỹ mang đầy đủ các giá trị cốt lõi về tự do, dân chủ, bác ái, nhân đạo, và bình đẳng. Một nước Mỹ với tượng nữ thần Tự Do cầm đuốc soi sáng để thắp lên hy vọng cho tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Một nước Mỹ sẽ luôn nằm trong giấc mơ của những đứa trẻ ở các nước đang phát triển như giấc mơ Mỹ quốc đầu tiên mà tôi đã có đúng nửa thế kỷ trước.
Huy về nhà nghỉ spring break hai ngày sớm hơn dự định. Trường võ bị West Point cho phép Huy về nhà sớm trước khi kỳ nghỉ spring break thực sự bắt đầu vì Huy có lịch làm diễn giả khách mời (guest speaker) ở một số trường trung học. Ngày đầu tiên về làm diễn giả khách mời ở ngôi trường trung học ngày xưa, Huy có dịp gặp lại cô Smith, thầy Williams, thầy hiệu trưởng sau khi hoàn thành xong ba buổi nói chuyện với vài trăm em học sinh trung học. Cô Smith và thầy Williams rất vui mừng nói rằng họ rất tự hào khi biết Huy đã vượt qua nhiều năm tháng gian khổ ở trường võ bị West Point, nhất là khi biết Huy đã hoàn tất các cuộc hành quân Norwegian Rucksack March. Về làm diễn giả ở ngôi trường trung học ngày xưa, đối với Huy, điều này là điều đặc biệt nhất trong kỳ nghỉ spring break năm ấy.
Trên máy bay về lại nhà, vợ chồng chúng tôi có chung một nhận xét: chuyến đi San Jose vừa qua là một chuyến du lịch cuối tuần đáng ghi nhớ nhất, tuyệt vời nhất. Dự liên tiếp hai đại tiệc, với đủ tình non nước, tình trường xưa nghĩa cũ, tình đàn anh đàn em, tình huynh đệ chi binh, tình bạn từ thuở tiểu học, viếng thăm mộ phần, cầu nguyện cho những người thân đã khuất núi, thăm được Cô bên Nội 94 tuổi, ông anh bên Ngoại gần 100 tuổi, nối lại và thắt chặt tình bà con cả bên Nội lẫn bên Ngoại. Vinh dự được anh chị Bs. Nguyễn Thượng Vũ đón tiếp và khoản đãi sang trọng như một thượng khách. Ấm áp được vợ chồng cousin Ngô Xuân Hùng đón đưa đi đây đó, ân cần tiếp đãi một cách rất chân tình. Và nhất là chúng tôi được ở trong khách sạn sang trọng “ngàn sao” không đâu sánh bằng.
Các cháu vừa được ông Nội chở đi ăn 'hamburger", sau giờ học về, mở cửa chạy vào quăng cặp sách trên kệ, nhảy tới ôm Bà hôn tới tấp: - Ăn no lắm Bà ơi. Bà vẫn nằm yên trên ghế sofa: - Bà dặn bao nhiêu lần rồi, về nhà phải nói tiếng Việt, không uổng công Ông đã đưa đi đón về học lớp Việt Ngữ bao nhiêu năm nay. Hai hôm nay bệnh đau lưng tái phát, nên Bà bớt làm công việc nhà. Mấy chục năm trước bà đã bị mổ kéo dài mấy tiếng đồng hồ, con cháu lo sợ Bà không qua khỏi, nhưng khi thấy Bà tỉnh lại cả nhà mừng rỡ tạ ơn Phật, Chúa. Bà đang làm ăn phát đạt phải dứt khoát buông bỏ, sang tiệm nghỉ ngơi. Tiếng cháu Út: - Bà cần con bóp tay chân không? Cháu khác: - Bà muốn gì nói con giúp nha, Bà ăn chưa? Hai cháu còn lại vuốt những sợi tóc loà xoà phủ trên trán Bà “Nội đừng làm gì nữa nhé, nằm nghỉ cho khỏe.”...
Ngày giỗ đầu tiên của mẹ. Cả nhà im lặng cắm cúi ăn. Mọi người tránh nhìn vào nhau, như thể đang tìm cách không làm đau lòng người khác bằng những kỷ niệm quá sâu sắc. Thi thoảng, họ trao đổi với nhau những câu rời rạc, nhưng tuyệt nhiên, không ai nhắc đến từ “Mẹ“, cố tình xem đây là bữa ăn bình thường, không phải là giỗ mẹ. Nỗi đau mất mẹ như vết thương còn quá mới, không ai dám chạm vào, sợ làm những giọt nước mắt ứa ra. Nhưng dù cố gắng thế nào, mẹ vẫn hiện hữu trong từng ngóc ngách ngôi nhà. Bình thường, bữa cơm nhà bao giờ cũng rộn ràng. Gia tài có hai đứa con gái, mà khẩu vị thật khác nhau. Vậy mà mẹ vẫn cố gắng chìu ý từng đứa.
Từ lúc sanh ra, hai chị em tôi rất ít khi gặp ba, chỉ biết có mẹ. Sau này chúng tôi mới nghe mẹ kể, ba là người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), ít về nhà. Khi chúng tôi hơi lớn lên một chút thì ông đã tử trận oai hùng vào dịp Tết Mậu Thân 1968, năm tôi mới được bốn tuổi và chị sáu tuổi. Mẹ là một người phụ nữ hiền lành, mảnh mai, đẹp và quyến rũ, ai gặp mẹ, nói chuyện với mẹ là khó có thể quay lưng, nên cuộc đời mẹ thật truân chuyên, trong thơ Nguyễn Du có câu: Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau (Kiều-Nguyễn Du)
Ngày tháng trôi qua vùn vụt, mới đó đã nửa thế kỷ từ khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam. Năm nay hình như cơn buồn của người dân tỵ nạn tăng lên nhiều hơn, nỗi nhớ, nỗi uất hận cũng thấm đậm hơn. Tôi thấy nhiều hội đoàn xôn xao chuẩn bị ngày tưởng niệm mất nước trong “tháng Tư Đen” sớm hơn, thay vì những năm trước chỉ vào cuối tháng.
1975. Tháng Tư, thị trấn Sparks, tiểu bang Nevada. Ba chị em ngồi dán mắt trước cái tivi đài Mỹ đang chiếu tin tức thời sự. Màn hình hiện lên bản đồ hình chữ S có tên của ba thủ đô Hà Nội - Huế - Sài Gòn. Đường vĩ tuyến 17, chia cắt hai miền Bắc Nam rõ rệt. Bắt đầu từ Tháng Hai năm 1975 tôi đã theo dõi tin tức Việt Nam nhiều hơn, khi chiến trận giữa Bắc Nam ngày càng sôi động, cũng nhờ mấy bài báo cắt ra do Ngọc Anh em tôi gởi qua. Họ đưa hình bản đồ chữ S lên, Miền Bắc sơn màu đỏ, rồi màu đỏ vượt khỏi vĩ tuyến 17 tràn xuống Miền Nam. Màu đỏ lan xuống tới đâu, tôi rớt nước mắt tới đó...
Nhạc sĩ Cung Tiến