Hôm nay,  

Một Ngày Nghỉ Không Thể Quên

09/10/201500:00:00(Xem: 15054)

Tác giả: Sáu Steve Brown
Bài số 3640-18--30130vb6100915

Với bài "Hành Trình Tiếng Việt của Một Người Mỹ", Sáu Steve Brown là tác giả đã nhận Giải Viết Văn Việt ngữ Trùng Quang năm đầu tiên, 2013. Ông là một cựu chiến binh Mỹ từng đóng quân ở Biên Hoà và kết hôn với một phụ nữ Việt. Viết Về Nước Mỹ, ngày 18 -12-2012 đã phổ biến bài viết trực tiếp bằng tiếng Việt đầu tiên của ông, kể chuyện tình 40 năm trước giữa chàng thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ và một cô gái Việt. Ông bà nay có 7 người con, hiện ở Ohio. Trong các bài tác giả đã góp, có “Nhớ Bạn Năm Xưa” kể kỷ niệm thời chiến tranh Việt Nam. Bài mới ông Sáu kể thêm nhiều chi tiết xúc động.

* * *

blank
Tác giả Sáu Steve Brown Ohio bay về California nhận giải Việt Bút Trùng Quang năm đầu tiên 2013 do Ông Đổ Doãn Quế, trường nam của cố nữ sĩ Trùng Quang trao tặng. Trong hình từ trái: Trương Ngọc Bảo Xuân, Bồ Tùng Ma, Nhã Ca.

Mùa hè năm 1972 tôi đóng quân ở Biên Hòa trong đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Mỹ. Sau khi đóng ở đó vài tháng tôi được một ngày nghỉ.

Hôm đó tôi thức dậy trước khi mặt trời mọc như thường lệ, đi bộ đến chỗ lấy súng lục 45 rồi đi sang nhà ăn quân đội. Trên đường đi tôi gặp Kevin. Năm 1969 Kevin và tôi tốt nghiệp trung học cùng một trường. Cả hai chúng tôi lên đường đi huấn luyện quân đội 10 ngày sau đó. Suốt ba năm Kevin và tôi cùng đóng quân tại bốn căn cứ khác ở Mỹ, rồi tại Nhật Bản, và cuối cùng tại Việt Nạm. Chúng tôi đứng đó mấy phút nói chuyện về tin tức ở quê hương rồi đi.

Ăn xong tôi đi bộ đến đơn vị máy bay trục thăng UH-1 của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Khi nghe máy bay mở máy tôi bước tới hỏi phi công họ đi đâu và tôi đi cùng với họ được không. Người phi công nói họ sẽ đi Lai Khê và cho phép tôi đi cùng với họ. Như thế tôi lên máy bay và máy bay cất cánh liền. Trước kia tôi đã đến Lai Khê mấy lần rồi.

Khoảng chừng 25 phút sau chúng tôi tới nơi. Từ trên cao tôi thấy nhiều đại bác ở phía nam căn cứ. Máy bay hạ cánh trên phi đạo ở trong một đồn điền cao su, tôi xuống ngay. Mấy phút sau máy bay đó cất cánh đi công tác khác.

Tôi đi bộ đến một cái tháp làm bằng gỗ bên cạnh phi đạo và leo lên đỉnh.Từ phía bắc tôi thấy nhiều khói bốc lên ở xa xa. Lúc đó trận đánh An Lộc vẫn còn đang kéo dài. An Lộc phía bắc Lai Khê nhưng khá xa, khoảng chừng 40 cây số nên tôi đoán khói đó ở một chỗ nào đó gần hơn. Trong đồn điền cao su có một số lính bộ binh Việt Nam cũng đứng gần cái tháp đó. Một máy bay trục thăng CH-47 bay tới và hạ xuông rất gần, khoảng hai mươi người lính xuống máy bay. Họ mang xác của một người lính đã chết để vào trong xe cấp cứu. Sau đó xe đi ngay.

Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau một máy bay trục thăng UH-1 của lục quân Mỹ hạ cánh rất gần và tắt máy. Tôi xuống tháp đến xin phép đi cùng họ. Lúc đầu họ ngạc nhiên vì ở đó ít khi thấy thủy quân lục chiến nên tôi phải giải thích lý do tôi ở đó. Người phi công gọi hỏi ý chỉ huy đơn vị ở căn cứ Long Bình và được cho phép đem tôi đi cùng với họ. Ít lâu sau máy bay đến một căn cứ rất nhỏ của lực lượng đặc biệt ở Biên Hòa. Có xe tới chở chúng tôi đi đến một ngôi nhà để họ bàn luận công tác. Trong lúc đó tôi ngồi trong phòng kế bên lắng nghe họ nói gì. Khi họ nói xong chúng tôi trở lại máy bay trực thăng. Bốn người đó bàn luận với nhau nên ăn cơm trưa ở đâu. Nghe họ nói về điều đó tôi tôi thấy hơi lạ nhưng không nói ra. Tôi nghĩ, ủa, trong chiến tranh cũng có thể lựa chọn sẽ ăn cơm trưa ở đâu sao.

Cuối cùng họ quyết định trở lại đơn vị tại căn cứ Long Bình. Ăn xong chúng tôi nằm nghỉ một hồi rồi lên máy bay và bay đến căn cứ lực lượng đặc biệc nhỏ đó. Có xe chở một thiếu tá nhảy dù Mỹ lên máy bay. Ông ấy là cố vấn cho một trung đoàn nhảy dù VNCH. Ông ấy có mang súng CAR-16. Cái súng đó giống cái súng M-16 nhưng ngắn hơn nhiều. Tôi chỉ thấy loại súng đó ở Việt Nam một lần đó mà thôi.

Cộng tác chiều hôm đó là bay đến một căn cứ nhỏ hướng tây của Tây Ninh gần biên giới Campuchia để chở sĩ quan chỉ huy trung đoàn nhảy dù VNCH đi đến đơn vị của ổng hiện đang đi hành quân ở miền Tây. Tôi không rõ họ ở tỉnh nào nhưng tôi đoán là Long An hay Tiền Giang. Dù hôm đó có ai nói chúng tôi đi đến tỉnh nào thì bốn mươi ba năm sau tôi cũng không nhớ được.

Khi chúng tôi đang bay đến đó ông thiếu tá có chú ý đến lý do tại sao tôi đi công tác chung với họ. Khi bay qua những nơi nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam ông ấy kể cho tôi biết. Tôi cảm thấy hơi lạ vì các sĩ quan thủy quân lục chiến không có nói chuyện thân mật như thế. Từ rất xa tôi thấy Núi Bà Đen rồi cứ càng bay núi đó càng gần. Khi bay tới gần tôi thấy căn cứ đó nằm trên đất bằng và biệt lập với chung quanh.

Khi tới nơi ông thiếu tá đi liền. Người ta đổ xăng cho máy bay trực thăng. Rồi mấy phút sau ông thiếu tá Mỹ trở lại với một ông đại tá nhảy dù VNCH. Sau khi họ leo lên thì trực thăng thì cất cánh liền. Chuyến bay xuống miền Tây theo đường lộ một phần, còn phần kia bay gần biên giới Campuchia phía Mộc Bài.

Khi tới nơi, máy bay trực thăng thình lình giảm cao độ bằng cách chuyển động xuống theo hình trôn ốc thật nhanh. Sau khi xuống một số người kế bên bắn súng lien thanh M-60 vào một hốc cây bên đồng lúa. Rồi máy bay hạ cánh trên một con đường nhỏ băng qua đồng lúa, cách xa hàng cây khoảng một trăm thước. Khi tắt máy thì có nghe tiếng súng bắn từ hướng Nam không xa lắm. Ông đại tá cùng cố vấn Mỹ xuống và đi bộ về hướng đó ngay. Sau đó tiếng súng giảm bớt dần dần cho đến khi không còn nghe nữa.

Chúng tôi xuống máy bay chờ đợi. Hôm đó trời nắng gắt. Tôi cảm thấy rất nồng nực. Trong lúc đang chờ đợi một ông cụ với râu dài mang bé gái khoảng bốn tuổi bước tới đứng trước mặt tôi. Ông ta đưa hai tay ra để trao cho tôi bé gái đó. Ông đó có vẻ thât buồn và khi mới thấy chúng tôi bé gái đó đã khóc rồi. Nó không bị thương Ông ấy nói gì đó, nhưng lúc đó tôi chưa biết tiếng Việt nên không hiểu được. Tôi nhìn vào mặt ông ấy mà lắc đầu. Ông ấy và đứa bé bỏ đi. Sau đó tôi suy nghĩ đến lúc đó nhiều lần. Không biết đứa bé gái đó ra sao. Có lẽ ba má nó đã chết mà ông cụ đó không có khả năng nuôi nấng nó. Thắc mắc đó của tôi không có hồi âm. Đó là hai trong vô số người bất hạnh tôi đã gặp trong thời chiến tranh Việt Nam.

Sau khoảng chừng 30 phút ông thiếu tá Mỹ trở lại mà nói chúng tôi đi được rồi. Năm người chúng tôi lên máy bay trực thăng. Khi máy bay cất cánh và vòng lại tôi thấy thành phố Sài-gòn ở xa xa. Có vẻ như là Sài-gòn nằm trên đất bằng. Từ nơi này nhìn xuống Sài-gòn như nhỏ lắm. Càng bay thì Sài-gòn càng lớn dần cho đến lúc đi ngang qua. Khi bay qua sông Đồng Nai thì căn cứ Biên Hòa không cách bao xa nữa. Khi bay tới gần các đơn vị máy bay trực thăng VNCH thì chúng tôi hạ xuống. Máy bay vừa đáp xuống tôi bước ra liền, chạy vài bước rồi quay lại và đưa tay lên chào những người trên máy bay trực thăng khi họ cất cánh bay ra hướng Long Bình.

Tôi chẳng bao giờ có dịp gặp lại họ nhưng ngày nghỉ đó thì tôi nhớ mãi, không quên được.

Sáu Steve Brown

Ý kiến bạn đọc
09/10/201511:59:08
Khách
Chào chú Sáu,
Chú viết tiếng Việt hay quá. Cháu cũng có một người bác là sĩ quan ở Quân Đoàn 3 Biên Hoà tới năm 1975. Chú ở đâu tãi OH vậy? Hiện cháu cũng đang ở đây. Không biết là mình có duyên gặp gở không?
Chúc chú và gia đình vui vẻ, mạnh khỏe. Have a nice day!
Triều Phong (TPN)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 864,931,467
Tác giả sinh năm 1940, cựu sĩ quan VNCH, khoá 12 SVSQ Thủ Đức, Giảng Viên Anh ngữ trường Sinh Ngữ Quân Đội, cựu tù chính trị, đến Mỹ năm 1991 theo diện HO9, hiện định cư tại Greenville South Carolina. Từ năm 2002, ông đã góp nhiều bài Viết Về Nước Mỹ giá trị. Sách đã xuất bản: "Hành Trình Về Phương Đông." Sau đây là bài viết mới của ông.
Tác giả đã góp nhiều bài viết giá trị và có tên trong danh sách chung kết giải thưởng Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIÌ, 2012. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biển đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA.
Tác giả là một nhà thơ quân đội. Trước 1975, ông là một sĩ quan hải quân, từng tu nghiệp tại Mỹ. Sau năm 1975, ông trở thành người tù chính trị và định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Ông cũng tham dự nhiều sinh hoạt cộng đồng tại San Diego và góp nhiều bài tham dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ những năm đầu tiên. Năm nay, Phạm Hồng Ân là tác giả vào danh sách chung kết giải thưởng Việt Báo 2012. Sau đây là bài viết mới của ông.
Tác giả họ Vũ, cư dân Bắc California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là “Giấc Mơ Thiên Đường”, truyện ngắn về một thảm cảnh gia đình Việt tị nạn. Tiếp theo, “Trường Đời: Học Làm Chồng” và “Số Đào Hoa” cho thấy tài kể chuyện duyên dáng của tác giả. Sau đây là bài viết mới nhất.
Có một lúc nào đó trong thời thơ dại, bạn tôi mơ trở thành vận động viên thể dục (gymnastics Olympian ) đi dự thi đại hội thể thao của thế giới được tổ chức mỗi bốn năm.
Tác giả đã góp bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên từ 2009. Sang năm 2011, với bài “Nằm Trong Hộp Gỗ, Trông Lên” và nhiều bài đặc biệt khác, ông là tác giả được bình chọn vào danh sách chung kết Viết Về Nước Mỹ 2012. Bài viết mới sau đây tiếp tục cho thấy cách viết linh hoạt vui vẻ của tác giả.
Tác giả Nguyễn Quang sinh năm 1947 tại thị xã Quảng Trị, cư dân Nam California, là chủ tịch Hội Ái Hữu Quảng Trị. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông từ năm 2007, kể về người thầy dạy Việt văn tại trường trung học Nguyễn Hoàng, Quảng Trị gần nửa thế kỷ trước. Sau đây là bài viết thứ hai, vẫn là chuyện kể về những thầy bạn cũ.
Tác giả là cư dân Austin, Texas; Công việc: y tá trưởng trong một bệnh viện thành phố, đã góp nhiều bài viết sống động và nhận giải vinh danh tác giả Viết về nước Mỹ 2006.
Tác giả là một nhà báo quen biết tại Dallas, từng dự phần biên tập, chủ biên các báo Ca Dao, tuần báo Trẻ, Thời Báo... Phan cũng từng góp nhiều bài viết về nước Mỹ giá trị và đã nhận giải danh dự Viết Về NướcMỹ. Bài mới của Phan là chuyện đi coi nhà để mua tại Dallas.
Tác giả sống tại Ottawa, Ontario, Canada từ 1980. Bút hiệu là tên trường học nơi Minh Thành từng dạy môn Sinh - Hoá từ cuối thập niên 70. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của Minh Thành kể chuyện gia đình "Người Mỹ Hàng Xóm.". Bài gần nhất là: “Nội soi ruột già.” Bài mới được ghi là “Thuật lại lời kể của người anh họ tôi.”
Nhạc sĩ Cung Tiến