Hôm nay,  

Cuối Năm-Giáng Sinh: Như Mới Hôm Qua

23/12/201800:00:00(Xem: 21689)
Tác giả: Captovan

Bài số 5580-20-31386-vb8122318

 
Tác giả tên thật Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, khoá 19 Võ Bị, 50 năm lính với Chiến Thương Bội Tinh. Mậu Thân 1968, ông là một Đại Đội Trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến tại trận địa Phú Lâm, Chợ Lớn. Tháng Tư 1975, ở với đồng đội ven đô cho tới giờ phút cuối, sau đó là 10 năm tù công sản. Định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO1, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận  giải á khôi năm 2014.

 
***
 

“Merry Christmas & Happy New Year”. Những ngày  cuối năm là lúc nói lên lời chúc mừng tốt đẹp nhất cho Đêm Giáng Sinh, chiều tất niên, sáng tân niên, khi gia đình, thân hữu, đồng môn, đồng khóa, ngồi bên nhau nâng ly.

Đây cũng là lúc mọi người nhớ đến nhau, gọi tên nhau và hướng về tương lai. Nhưng  cũng không khỏi ngậm ngùi với dĩ vãng từ nửa thế kỷ trước. Làm sao không  nhớ lại những ngày tháng khó quên của đời lính chiến, thương tiếc quá những người anh em đã ra đi!

Với tôi, những kỷ niệm quê nhà với đồng đội từ chiến trường, từ nhà tù, dù đã hơn  nửa thế kỷ, vẫn như mới xẩy ra ngày hôm qua.

 

“Hôm Qua”:

Chiến trận cuối năm

Sáng 31/12/1964, tôi dẫn anh em Đại Đội 4, TĐ5/TQLC ra bãi tập chiến thuật ở bên cạnh suối Lồ Ồ, (Dĩ An), dưới chân núi Châu Thới (Biên Hòa), bãi tập là cánh rừng thưa có nhiều mai vàng đang hé nhụy, báo hiệu mùa Xuân sắp về. Khi thực tập bài học tấn công, anh em binh sĩ lại ngụy trang bằng những cành hoa mai, việc này tuy sai với nguyên tắc ngụy trang, nhưng tôi chỉ mỉm cười.

Đang tập cho lính xung phong vào mục tiêu giả thì tôi nghe kèn báo động từ Bộ Chỉ Huy, tôi nhận lệnh đem đại đội trở về doanh trại gấp. Tiểu Đoàn 5/TQLC súng đạn sẵn sàng ở sân cờ để tiếp viện cho đơn vị bạn. Mấy sĩ quan trung đội trưởng chúng tôi lo âu ngơ ngác nhìn nhau, nhìn vào phòng “văn khang”, hoa rượu đã sẵn sàng trên bàn tiệc, ngoài cửa, cờ quạt cùng dòng chữ “Cung Chúc Tân Xuân”, thay vì phất phới bay thì đang rung lên bần bật theo tin dữ báo về: “TĐ4/TQLC đang đụng nặng tại Bình Giả”.

Trung Úy Dương Bửu Long*, ĐĐT/ĐĐ4, sau khi kiểm soát súng đạn xong, kéo tôi ra chỗ vắng nói nhỏ:

-TĐ4/TQLC đụng ở Bình Giả, thiệt hại nặng lắm, Tiểu Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Phó, Bác Sĩ đều tử trận cả rồi! Các ĐạiĐội trưởng làTr/Úy Huệ (K17) tử trận, Tr/Úy Toàn (K16) mất tích, chỉ còn Tr/ÚyTùng* và Tr/ÚyTống* (K16). Hai bạn cùng Khóa 19 của mày làTh/Úy Võ Thành Kháng và Nguyễn Văn Hùng cũng tử trận rồi!

*Các anh Long, Tùng, Tống nay cũng không còn nữa!

Nghe tin các bạn đồng Khóa 19/TQLC Võ Thành Kháng, Nguyễn Văn Hùng và BĐQ Nguyễn Thái Quan đã tử trận khiến tôi sững sờ, toàn thân tê đi. Tình nguyện về đơn vị chiến đấu là chọn hiểm nguy, nhưng không ngờ các bạn tôi lại tử trận nhanh quá!

Chúng tôi vừa tốt nghiệp thiếu úy ngày 28/11/1964, mới hưởng xong 15 ngày phép mãn khóa, cặp lon thiếu úy TQLC kim tuyến trắng tinh, chưa dính bụi trần, tưởng như vẫn còn hương thơm và dấu tay của người yêu, mới ra trận có 15 ngày thì đã nhuộm máu, các bạn tôi đã hy sinh, đã trả xong nợ nước.

Nếu như ngày “Hôm Qua”, 31/12/1964 nhiều đồng đội, đồng khóa, đồng môn của tôi tử trận tại Bình Giả,  thì ngày “Hôm Qua”: 31/12/1967, đối với tôi còn quái ác hơn, tôi mất đi những anh em yêu thương nhau còn hơn ruột thịt.

Ngày cuối năm ấy, Đại Đội 1/TĐ2 của tôi nhảy trực thăng đợt đầu xuống mục tiêu kinh Cái Thia, quận Cai Lậy, và đụng địch ngay. Đủ mọi thứ súng từ trong bờ kinh bắn ra, quân ta từ đồng ruộng lúa trống không chỗ ẩn núp nên cách duy nhất để tìm cái sống trong cái chết là nhào vô, với kinh nghiệm, Đại Đội Phó Nguyễn Quốc Chính K20VB đã chỉ huy điều quân thay cho Trung Đội Trưởng Huỳnh Vinh Quang K22VB (mới ra trường) mà phất tay ra lệnh “xung phong” thẳng vào mục tiêu. Giặc chạy tán loạn, quân ta giảm thiểu được thương vong, nhưng than ôi, tiếng Quang hét qua máy:

-Anh Cấp! Anh Chính chết rồi!

Tiếng thét ấy, dù đã hơn 50 năm, vẫn không ngừng ám ảnh tôi. Thương nhớ biết bao.


Khi anh Nguyễn Xuân Phúc làm ĐĐT/ĐĐ4/TĐ2/TQLC thì Trần Văn Hợp làm đại đội phó, còn Chính và tôi là trung đội trưởng. Đại đội có  4 anh em: Phúc, Hợp, Cấp, Chính. Chú em út Quốc Chính ra đi quá sớm.  Và rồi, gần 8 năm sau, lúc 9 giờ sáng ngày 29/3/1975, ông anh cả Xuân Phúc cũng biến mất trong khói lửa mịt mù bên bờ biển Non Nước, còn Hợp thì “tử nạn” trong ngục tù CS vào năm 1978 ở rừng núi Hoàng Liên Sơn (Bắc Việt).

 

“Hôm qua”: Giáng Sinh 1975 trong trại tù cộng sản

“Hôm Qua”: 24/12/1975, trong trại tù Suối Máu, Biên Hòa, Trần Văn Hợp kiếm đâu ra được ít vỏ và một miếng bí đỏ cỡ 3 ngón tay, kèm theo cái loon guigoz có ít nước vo gạo và chừng ¼ chén cơm nguội, hắn bảo tôi:

- Giao cho mày cái này để nấu chè, đêm nay mình ăn “reveillon”.

- Đường đâu mà ... chè!

- Cho tí muối thay đường, hạt muối chia hai, chia ba còn ngọt hơn đường, đừng cho họ biết, chờ đúng lúc có chuông nhà thờ, mình gọi họ dậy cùng thưởng thức.

“Họ” là gồm các anh Đoàn Trọng Cảo* K13, Đinh Xuân Lãm* và Trần Kim Hoàng* K17. K19 có Trần Xuân Bàng*, Trần Văn Hợp*  Huỳnh Văn Phú, Tô Văn Cấp. K21 có Trần Quang Duật, Doãn Thiện Niệm, Lê Xuân Sơn. Chúng tôi ở cùng trại, nằm sát bên nhau trong nhà tù Suối Máu, thương nhau, an ủi nhau nhưng không có gì cho nhau ngoài hai tiếng “niên trưởng.”

Và rồi, Giáng Sinh 25/12/1975. Nệm là miếng chiếu rách trải trên nền xi măng. Chăn là mảnh “poncho line”, bông gòn không còn, chỉ có cái vỏ mỏng tanh.

Những giọt sương khuya tí tách, lộp độp trên mái tôn, gió rít qua khe vách.

Lạnh quá, ngủ không được, tôi nằm nghiêng, co chân, ôm đầu gối vào lòng kiếm tí ấm thì đụng Trần Văn Hợp, hắn giật mình hỏi:

- Mày làm gì thế mà thúc đầu gối vào lưng tao?

- Lạnh quá, tao co đầu gối kiếm tí ấm.

Hắn im lặng, bản tính là thế. Không co bên phải nữa, tôi xoay qua bên trái, lại co, lại nghe anh Hoàng càu nhàu:

- Sao mày cứ nhúc nhích hoài vậy.

Tôi không ngủ được vì lý do cái loon guigoz chè mà Hợp giao cho tôi nấu đã bị đổ hết rồi! Tôi treo lon chè lên đầu khúc gỗ, làm cần câu đưa lon guigoz vào lò nấu cơm của nhà bếp trại tù, lửa nóng quá, cháy đầu cần câu bằng thanh gỗ, lon guigoz rớt xuống đống than hồng, tôi như rơi xuống địa ngục!

“Bính boong, bính boong”: Từng hồi chuông kéo dài, rồi “Đêm Thánh Vô Cùng”, “Đêm Đông”, “Cao Cung Lên”... từ xứ đạo Kim Bịch, ở cấy số 6, Hố Nai, vút lên trời cao, vọng vào trại Suối Máu, len vào từng thớ thịt, mạch máu của những tên tù bất đắc dĩ.

Xứ đạo Kim Bịch ở cây số 6, rất gần với trại Suối Máu, ban ngày tôi trông rõ cái tháp chuông. Kim Bịch là nơi tôi đã đi tu mấy năm trời, cha bố của tôi là Linh Mục Thọ, ngài có cái đầu hói, thông minh nhưng kỷ luật vô cùng. Ngài giao cho tôi phụ trách tập hát cho ca đoàn, trong ca đoàn có cô nhỏ xinh, tên Lựu, cô hay liếc và cười duyên với thầy dậy hát. Sau lễ nửa đêm Noel năm ấy, cô bé hẹn tôi đến tháp chuông... thế là cha bố bắt gặp và tôi bị xuất tu. Chúa gọi thì nhiều mà chọn thì ít chứ không phải vì tôi chọn Lựu làm người yêu.

Đêm Giáng Sinh 25/12/ 1975. Giáng Sinh đầu tiên tôi bị nhốt trong tù. Tôi nhớ gia đình, và thầm hỏi không biết cô học trò tên Lựu ngày xa xưa có còn ở xứ Kim Bịch không? Tuy gần mà xa.

Tôi ngồi dậy làm dấu Thánh Gía, mở mỉệng không ra nhưng nghe trong đầu có tiếng ca: “Silent Night, HoLy Nigh”.

Trong bóng đêm lờ mờ, nhiều tiếng động, tôi biết có nhiều anh em đồng tù cũng đã ngồi dậy cầu kinh và hát theo những bản thánh ca.

Hợp cũng ngồi dậy từ hồi nào, chờ tôi lẩm bẩm xong bài Silent Night, hắn hỏi:

- Hát xong chưa, mang chè ra, tao gọi “họ” dậy.

- Tao làm đổ hết trong lò rồi, cái lon guigoz cũng cháy theo.

Hợp không nói gì, chỉ thở dài rồi nằm xuống. Tôi vốn là con chiên không ngoan đạo, nhưng trong hoàn cảnh khó khăn tôi tin là có Chúa. Gặp lúc hiểm nguy, người ta cầu xin cả Chúa lẫn Phật. Tôi cầu xin Chúa và bạn bè tha lỗi cho cái tội “đoảng” của tôi, nấu có lon guigoz nước vo gạo cũng không xong.

Captovan
 

* cả 5 anh  đều đã qua đời.

Ý kiến bạn đọc
20/02/202112:58:05
Khách
Cháu là một người con của giáo xứ Kim Bịch, bây giờ đã đổi tên thành Kim Bích, nghe lại được câu chuyện này cảm thấy vô cùng xúc động, tuy cháu chỉ là thế hệ trẻ sau này. Giáo xứ bây giờ phát triển lắm, được cha Giuse Phạm Cao Thanh trông coi, các công trình được dựng xây nhiều hơn, nhà thờ cũng đã tu sửa
06/03/201900:28:46
Khách
Cialis Arreter Levitra Long Term Effects Viagra Generico Citrato De Sildenafila <a href=http://mdsmeds.com>cheapest cialis 20mg</a> Viagra Pille Viagra Aus Deutschland
05/01/201906:52:21
Khách
Bài này KhA đã đọc mấy lần mà lần nào cũng bồi hồi.
" Hợp không nói gì, chỉ thở dài rồi nằm xuống"
Cái thở dài đó, cái "bụng đói cật rét", và nỗi khổ tâm của tác giả khi làm anh em mất ăn, tất cả đã được viết lại một cách nhẹ nhàng vì mấy chục năm đã làm nhẹ bớt nỗi đau, nhưng khi lắng lòng mà cảm thì vẫn thấy như cứa vào tim.

Vô cùng thương tiếc chú Trần Văn Hợp đã không qua được kiếp nạn trong trại tù để bây giờ cùng ăn những bữa ngon với anh em mà nhớ lại lon nước vo gạo ngày xưa. Vô cùng thương tiếc và ghi ơn các chiến sĩ đã hy sinh.

Xin cám ơn tác giả.
30/12/201805:36:35
Khách
Cám ơn bác Cấp đã cho một bài viết thật là hay.
Bác có còn nhớ gì về Th/Úy Nguyễn văn Nhân, trung đội phó trung đội 2, tiểu đoàn 2 Trâu Điên? Thiếu úy Nhân đã hy sinh tại mặt trận Triệu Phong, trên đường tái chiếm Quảng Trị.
24/12/201820:34:18
Khách
Mừng lễ Giáng Sinh " chui" trong trại tù Cộng sản : Thời đã thế, thế thời phải thế ! Mất nước vào tay giặc Cộng là mất tất cả !

Trận chiến ở Bình Giả là một trận đánh lớn khoảng cuối tháng 12 năm 1964. Theo hai tác giả Võ Trung Tín và Nguyễn Hữu Viên , thiệt hại về phía ta có 201 thiệt mạng , 192 người bị thương , và 68 mất tích - trong đó, tiều đoàn 4 thủy quân lục chiến có 112 tử trận và 71 bị thương. Thiệt hại của Cộng quân khoảng hơn 1000.

Cộng quân khi đó đã được trang bị vũ khí tối tân AK47, CKC, thượng liên, K50, B40… Còn quân ta thì vẫn còn ôm súng Garant M1, carbin M1, trung liên BAR của Mỹ thời Đệ II Thế chiến !
23/12/201815:02:02
Khách
- Hát xong chưa, mang chè ra, tao gọi “họ” dậy.
- Tao làm đổ hết trong lò rồi, cái lon guigoz cũng cháy theo.
Trời! có mỗi cái lon chè muối cho anh em mà ông táo nỡ lòng nào làm cháy hết !!! Vừa cười vừa mếu, tội các anh quá, Giáng Sinh trong ngục tù cộng sản, như mới đêm qua.
Xin thắp ngọn nến trắng mùa Giáng Sinh, tưởng nhớ đến các anh đã hy sinh khi tuổi đời còn quá trẻ “cặp lon thiếu úy TQLC kim tuyến trắng tinh chưa dính bụi trần, tưởng như vẫn còn hương thơm và dấu tay của người yêu”.
Và. .. ngậm ngùi thương cho chính tác giả, người đã sống sót, chứng nhân của chiến sử oai hùng của Quân lực VNCH qua bao khói lửa đạn thù, bao bể dâu của đất nước, để nỗi ray rức tiếc thương cho những bạn hữu, thân hơn anh em, cứ ngậm mãi trong lòng, biết bao giờ nguôi!!!. Khâm phục tác giả có trí nhớ đáng nễ và giọng văn chân thật tới động lòng.
Nhân mùa Giáng Sinh kính chúc tác giả và gia đình an lành hạnh phúc.
Người Yêu Trâu Điên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 866,509,944
Tác giả Nguyễn Hưng chuyển bài đến bằng điện thư. Đúng vào dịp kỷ niệm một năm sau cơn thiên tai Katrina tàn phá New Orleans, bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là chuyện viết về những cư dân gốc Việt trong một xóm đạo ở vùng bị đất thiên tai. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết thêm và bổ túc dùm sơ lược tiểu sử và địa chỉ liên lạc
Tác giả Nguyễn Hưng lần đầu dự viết về nước Mỹ. Đề tài bài viết đầu tiên của ông là mộng hão huyền và thực tế Mỹ. Nhân vật là một người hãnh tiến đến cùng, được mô tả bằng bút pháp tinh tế. Bài được chuyển tới bằng điện thư. Mong tác giả tiếp tục viết thêm và bổ túc địa chỉ liên lạc cùng vài dòng tiểu sử. Những điều ông biết về nước Mỹ
Cho dù đang sống với hiện tại, hình như những cái bóng của quá khứ đủ mầu lúc nào cũng đeo đuổi chúng ta. Gia đình tôi thuộc cỡ trung bình của người Việt Nam, nghĩa là gồm ba mẹ và tám anh em. Sinh ra giữa đám anh em trai, thưở nhỏ tôi thích những trò chơi tạc lon, thả diều hơn là bế em, giải gianh. Tính con gái của tôi chỉ thể hiện
Thịnh Hương,cư trú và làm việc tại miền Bắc California, là một trong 12 tác giả vào chung kết Viết Về Nước Mỹ năm thứ sáu. Sau đây là hồi ký viết vội của bà, kể chuyện cùng con trai lái xe từ San Jose về Westminster
Chuyện xảy ra vào năm một ngàn chín trăm hồi đó, lúc mà gia đình tôi vừa từ Bình Giả, một vùng đất đỏ, không có điện đóm gì cả đến mảnh đất Hoa Kỳ này. Đúng là đổi đời.Tuy đã được học sơ về nước Mỹ và thói quen của người Mỹ một vài ngày ở Thái Lan nhưng tôi không khỏi kinh ngạc khi bước chân tới phi trường Los Angeles, nào là cửa tự động mở,
Tác giả Quân Nguyễn cùng vợ con đến Mỹ năm 1987, ông trở lại trường học, tốt nghiệp cao học về Sociology tại CSUF, đệ tam đẳng huyền đai Tae Kwon Do, từng làm counlelor tại nhà tù tiểu bang ở Chino, hiện làm state parole officer ở Santa Ana, và là cư dân Anaheim, CA. "Cách đây khoảng ba năm, chú em út của tôi,
"Bước tới đèo ngang bóng xế tà, Cỏ cây chen lá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông rợ mấy nhà." Tôi không biết tại sao mình nhớ bài thơ nầy. Có lẽ "tiều vài chú" gắn liền với định mệnh tôi: lấy chồng Tiều. Mặc đầu chồng tôi là người Tiều Châu (Trung Hoa) ), không phải người tiều phu (đốn củi) mà
Hoa Kỳ là một nước văn minh giàu có. Có thể nói là giàu nhất thế giới. Từ bao nhiêu năm, qua hằng bao Thế Kỷ, đã có biết bao người mơ ước được đến sinh sống trên đất nước Hoa Kỳ. Nhiều dân tộc đã đổ xô di dân đến Mỹ, vì Mỹ là vùng "Đất Hứa", là Cõi Thiên Đường. Người ta đã ví cho Mỹ là như vậy. Người Việt Nam sống dưới chế độ Cộng Sản từ sau 1975, cũng đã ôm ấp giấc mơ này
Thuở còn cắp sách đến trường, tôi không nhớ mình đã viết đến bao nhiêu dòng suy nghĩ trong các quyển lưu bút mỗi khi bắt đầu thấy hàng phượng ở sân trường một hôm bỗng đơm hoa đỏ thắm. Những dòng chữ ngây ngô mang nặng nổi buồn man mác khi sắp phải xa trường lớp với thầy cô cùng bè bạn dù chỉ trong vài tháng
Bà Đoan mấy bữa nay bận rộn với hai đứa con: thằng Doãn lên 9 và con Liên lên 7, hễ bà đi làm về chưa kịp uống ngụm nước thì chúng nó hối thúc đi chợ mua sắm đồ dùng để đi cắm trại. Thân thể mệt nhừ sau 8 tiếng làm trong hãng, bà chỉ muốn về nhà ngồi trên chiếc Lazy-boy nghỉ ngơi chốc lát, nhưng xem chừng số bà lận đận lao đao từ nhỏ
Nhạc sĩ Cung Tiến