Hôm nay,  

Đi Tìm Xác Ba

6/14/201800:00:00(View: 16924)
Tác giả: Susan Nguyễn

Bài số 5412-19-31253-vb5061418

 
2018-1968, đánh dấu 50 năm trận chiến Tết Mậu Thân, tiếp tục viết về cuộc tàn sát tại Huế. Susan Nguyễn là người gốc Huế, hiện đang định cư tại Canada, lần đầu viết bài gửi Việt Báo. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết thêm.

 
***
 

Mới đó mà 50 năm từ ngày Ba mất. Ba mất vào mùa Xuân Mậu Thân, 1968. Từ đó cho đến 1975, cứ khoảng sau Tết là nhang khói ngập trời cả thành phố Huế.

Ngày ấy cả thành phố chìm ngập trong màu khăn sô trắng. Gần sáu ngàn anh linh, nạn nhân của một cuộc tàn sát đẫm máu, vất vưởng đâu đây trên những bãi cát vùng Diên Đại, Xuân Ổ, Xuân Đại, Phú Thứ. Những oan hồn lẩn khuất quanh sân trường Gia Hội, Kiểu Mẫu. Những người vô tội bị xử tử ngay tại nhà, trước mặt người thân. Những vị bác sĩ từ tâm người Đức bị sát hại sau chùa Tường Vân và hàng trăm người dân vô tội ở vùng Phủ Cam bị lùa xuống khe Đá Mài.

Ôi! Tôi không muốn nhớ đến cảm giác hãi hùng ấy nhưng sao nó vẫn cứ khắc sâu trong tâm khảm. Phải chăng những anh linh ấy không siêu thoát được vì cái chết đau thương của họ đã bị  lịch sử bóp méo? Thoang thoảng đâu đây như tiếng kêu gào “Trả sự thật lại cho chúng tôi”.

Ba! Con sẽ không quên. Lịch sử sẽ không quên và rất nhiều người trên thế giới này sẽ mãi không quên dù ai đó cố tình đổi trắng thay đen để chạy tội cho cuộc tàn sát mọi rợ đó.

Ngày đó, tuy còn nhỏ nhưng con đã biết nhận xét mọi chuyện. Gia đình mình gần như là nơi tụ tập của Uỷ Ban Truy Tầm Nạn Nhân Mậu Thân. Mỗi buổi sáng là hai chiếc xe GMC đậu trước nhà để chở dân và nhân công đi tìm kiếm mồ chôn tập thể. Mấy dì trong ban tổ chức có chồng mất tích như Cô Tôn Thất L. ,dì Quýnh, Dì An, Dì Dương, Dì Mại, Mạ con… đều lo sửa soạn vật dụng mà Chú Thuyên (phó quận trưởng quận Phú Vang) và mấy chú lính chở tới như những cây vải ny lông để bó hài cốt, dây cột, thẻ bìa carton trắng để ghi chi tiết nhận dạng cho mỗi thi hài…

Sáng nào tụi con cũng giúp mấy dì cắt rồi xếp những mảnh ni lông, mỗi mảnh dài khoảng hai thước để bó thi hài. Thường thì mỗi ngày cắt khoảng độ một trăm tấm ni lông như vậy. Ni lông xài có ngày dư, nhưng có nhiều khi thiếu, đó là những ngày tìm được nhiều mộ san sát nhau.

Những thi hài kiếm được, đem về tập trung ở sân trường La San thuộc xã Phú Thượng. Có gia đình nhận dạng được người thân thì đem về nhà làm đám riêng nhưng cũng có gia đình vì nghèo hoặc vì lý do riêng đã để thân nhân an táng cùng với đám tang được tổ chức bởi chính quyền.

Phần lớn công cuộc tìm xác đều do thân nhân tình nguyện đóng góp công sức. Ngoại trừ đội hốt cốt là được thuê mướn để làm công việc vô cùng cực khổ này vì cả ngày phải tiếp xúc với xác người sau hơn một năm đã phân hủy và bốc mùi hôi thối.

Trưởng đội hốt cốt là ông Noại, chuyên nghề khâm liệm người chết. Mỗi sáng, ông Noại bắt đầu một ngày làm việc bằng ly rượu trắng nhỏ. Ông làm việc rất có tâm, được mọi người thương mến và kính trọng. Người chết trong tư thế nằm ngồi ngổn ngang chồng lên nhau trong những cái hố chật hẹp nhưng ông cẩn thận lượm từng mảnh xương nhỏ từ đốt tay, đốt chân của mỗi thi hài. Có thi hài còn đủ áo quần, nhưng cũng có những thi hài chỉ trần xì cái quần đùi, rất khó nhận diện.

Tôi đã nghe được nhiều mẩu chuyện cười ra nước mắt bởi ông và mấy chú bác về việc tìm xác thân nhân.

Có một bà nhận được xác chồng nhưng không có đầu (có lẽ ông bị xử tử bằng cách chặt đầu). Tội nghiệp bà vợ không nỡ để chồng không đầu nên cứ lần lữa, tìm kiếm mãi. Bà đi theo và năn nỉ với ông Noại:

- Chú ơi! Chú có cái đầu mô dư cho con một cái.

Ông nạt ngang:

- Người mô thì đầu nấy, dư mô mà cho, nói tào lao!

Vậy mà mấy hôm sau, đi vùng khác, tìm được một cái đầu lâu trong bụi rậm, ông nhắn “Chôn chưa, về chú cho cái đầu nè.” Bà ta tất tả mừng rỡ chạy đến gói cái đầu lâu về làm đám chồng.

Rồi còn có một chị trong xóm, đi tìm xác chồng nhưng không được vào trong (mọi người phải ngồi ở địa điểm tập trung an toàn và nghe nhận diện thi hài qua haut-parleur (máy phóng thanh). Chị bèn xin làm thiện nguyện với nhiệm vụ phụ gánh thi hài ra xe để có dịp vào tìm kiếm.

Cứ hai người gánh một thi hài đã được bọc nylon và bó dây kỹ lưỡng. Một lần kia, chị phụ gánh một thi hài nhưng đi được vài chục bước thì thi hài rớt ra, chị phải dừng để buộc lại, đi thêm vài chục bước thì thi hài rớt thêm lần nữa, lại buộc và đi tiếp. Qua lần thứ ba thi hài lại rớt và xổ tung cả bao ni lông ra, chị phải nhặt gom lại và chợt thấy mảnh vải quần đùi của chồng mà chị tự tay may lấy. Chị giở ra xem lại và oà khóc nức nở, chị đã gánh đúng xác của chồng chị mà không biết!

Còn rất nhiều mẩu chuyện “trời đất dun dủi” như thế nữa, nghe rất thương tâm.

Cực khổ rứa đó mà ngày nào Mạ cũng đi, sáng đi chiều tối về. Ngày nào Mạ cũng lê la bên mấy mồ chôn để mong nhận diện ra Ba. Ngày nào cũng hít thở mùi xác chết thối rữa trong cái nắng mùa hè, vậy mà Mạ không sợ. Cũng may trời thương, Mạ không bị bệnh hoạn chi hết.

Sáng sớm Mạ mua ít đồ ăn vất lại cho bầy con ở nhà tự xoay sở lấy, cả hàng quán cũng vất liều luôn. Mạ mua ít gói xôi hay vài trái bắp làm thức ăn trưa rồi dang nắng suốt ngày ở những vùng đất cát trắng nóng như đổ lửa, hôi thối ghê người ấy.

Bác của tôi cũng đi theo để phụ Mạ tìm xác Ba, người em trai duy nhất của ông. Thấy cực khổ quá nên có khi Bác khuyên Mạ nên ở nhà để lo cho các con rồi thỉnh thoảng thay phiên với Bác cũng được.

Thế nhưng, ở nhà một hôm thì Mạ thấy lòng bị thôi thúc, ruột gan không yên, ở nhà mà cả ngày cứ ngửi thấy đâu đây mùi xác người chết. Vậy mà, trời đất phù hộ, khi lăn lóc với các hầm chôn người thì Mạ không cảm thấy gì hết. Mạ lại nhập vào cuộc kiếm tìm và nhờ vậy, khi tìm ra xác Ba, cả Mạ và Bác có thể lo chu toàn hơn.

Đoàn đi tìm xác nạn nhân đã đi từ vùng Xuân Ổ, Diên Đại là những vùng xôi đậu, ngày theo Quốc Gia, đêm phò Cộng Sản. Nghe đâu có người ở vùng đó về chiêu hồi mới kể lại là có những hầm chôn người tập thể nhưng vẫn không biết chính xác ở chỗ nào.

Sau mùa mưa, những hầm chôn sụt lở, lộ ra nhiều xương người. Lúc đầu, người về đó kiếm tìm cũng không có bao nhiêu vì không biết địa điểm chính xác. Dân làng phải chịu đựng cơ nguy bệnh dịch cùng mùi xác chết nực nồng mà không dám khai báo vì sợ đến đêm Việt Cộng sẽ về trừng trị.

Một ngày kia, người làng truyền miệng nhau là nếu biết hầm ở đâu thì ban đêm cứ lén cắm que làm dấu để ngày mai thân nhân về dời mộ đi cho đỡ hôi thối.

Ngày hôm sau, đội tìm xác quay lại thì thấy trên mặt đất khắp nơi đầy que cắm rợn người!

Đội hốt cốt làm việc cật lực và chỉ hơn mười ngày là xác tập trung đầy cứng sân trường La San.

Hơn năm trăm thi hài được cải táng đợt 1 ở nghĩa trang Ba Đồn. Ngày đưa tang cảnh tượng bi ai mà tôi không bao giờ quên được!

Cứ hai người nhân dân tự vệ gánh một thi hài và đi thành hàng tư. Cứ thế, đoàn gánh thi hài nối tiếp nhau dài hơn cả cây số. Thân nhân toàn là phụ nữ mặc áo dài trắng, đội nón lá đi sau khóc râm ran, lăn lộn nhìn rất thảm thương. Đau khổ, ai oán tưởng như vang tận đến trời.

Chỉ khoảng gần nửa tháng sau là cải táng đợt hai. Lần này còn nhiều thi hài hơn, không còn gánh nổi, nên các thi hài được chở bằng xe vận tải của quân đội (ngày đó gọi là xe GMC) lên nghĩa trang Ba Đồn.

Rồi những thân nhân còn lại chưa tìm được xác người thân lại miệt mài tìm kiếm. Hết Xuân Ổ, Diên Đại rồi qua đến Phú Thứ. Hầm có xác của Ba được tìm thấy ở Phú Thứ sau hơn một tháng kiếm tìm và mỏi mòn hy vọng.

Hầm chôn tập thể này khác với những hầm chôn khác là khá sâu và nấm đất được vun cao chứ không nông như những hầm khác. Có lẽ đây là những người bị giết đầu tiên nên áo quần còn đầy đủ, chỉ có đồng hồ và những tư trang khác như nhẫn cưới, đồng hồ là bị lột sạch mà thôi.

Khi đào lên thì Mạ đứng cạnh hầm. Mạ nhìn thấy Ba đầu tiên trong tư thế ngồi như cố nhoi lên. Ngày xưa ba bị tai nạn xe, gãy hết mấy cái răng cửa nên phải làm lại răng xương viền vàng, đó là điểm chính yếu để Mạ nhận ra Ba. Ngoài ra, khi bị bắt đi thì Ba mặc áo dài xuyến đen, Mạ đưa thêm cái áo vest khoác ngoài kẻo lạnh nên Mạ nhìn ra liền. Kỹ hơn, mạ xé một mảnh vải quần đùi trên xác Ba, chạy xuống ao nước kế bên vò sạch thì thấy đúng là cái quần đùi sọc Mạ tự tay cắt may cho Ba.

Khi biết đúng rồi thì Mạ ngã gục xuống bên hố, nhưng may mắn có Bác tôi đã bình tĩnh trông coi và giúp sức với ông Noại hốt cốt cẩn thận cho đến cả xương lóng tay, lóng chân.

Điều đặc biệt là hầm chôn xác Ba đều được nhận dạng hết vì toàn là người trong một xóm. Hầm gồm có hai mươi bảy người, toàn là người trong xóm đã nghe lời Việt Cộng ra “trình diện học tập”. Tất cả các nạn nhân đều bị trói giật khuỷu tay bằng dây điện và có lẽ bị bắn, có người trúng đạn có người không, nhưng bị trói chùm nên tất cả đều bị xô xuống hố đào sẵn.

Các thi hài nằm ngồi ngang dọc, đè lên nhau, người hốt cốt phải có tâm lắm mới có thể phân chia riêng rẽ từng thi hài một.

Ở hầm này, người thân còn may mắn biết được ngày mất vì có một chú lận cái đồng hồ lên tận nách nên không bị tước đoạt. Ngày xưa đồng hồ phải lên giây mỗi ngày vì vậy khi đồng hồ đứng là biết chết trước đó một ngày. Cả nhóm bị bắt ngày mùng 6 âm lịch thì bị giết ngày mùng 8 vì đồng hồ đứng ngày mùng 9 tháng Giêng âm lịch, năm Mậu Thân.

Tất cả các hài cốt được đưa lên tập trung ở sân trường La San. Có người quyết định để thân nhân mình lại đó để được an táng cùng tập thể nhưng có một số gia đình thì xin đem về để làm đám táng tại nhà như Ba tôi và các chú bác khác.

Từ đầu xóm đến cuối xóm đèn đuốc sáng rực vì phải làm rạp chứa đám ở trước nhà. Hai mươi bảy bà goá phụ với đám con nhỏ mồ côi cha khăn áo tang trắng xóa, não nùng, thảm thiết nguyên cả xóm.

Ngày đưa tang Ba cùng với ngày cải táng tập thể đợt 3 và cũng là đợt cuối chấm dứt nỗ lực "Tìm Kiếm Nạn Nhân Mậu Thân".

Tôi vẫn còn nhớ như in quang cảnh ngày đó! Xe đưa tang ba đi sau đoàn cải táng, người người xếp hàng hai bên đường cung kính cúi đầu nón mũ cầm tay hoặc cầm hoa, nhang đưa tiễn. Ngang qua trường tiểu học Thế Dạ, học sinh và thầy cô giáo xếp hàng hai bên đường dài cả cây số để chào tiễn biệt. Đoàn thẳng tiến ra nghĩa trang Ba Đồn còn đám táng Ba thì rẽ vào An Cựu lên Ngự Bình để được an táng gần ông Nội của chúng tôi.

Khi Ba bị bắt đi thì đứa em út mạ bồng trên tay vừa tròn sáu tháng, khi đám tang ba thì em đã chập chững bi bô quanh nhà.

Anh lớn nhất của tôi cũng bị Việt Cộng bắt đi cùng ngày với Ba và tuyệt tích. Niềm thương nhớ chồng và con trai đầu lòng đã làm cho Mạ gần như gục ngã, nhưng Mạ cố ngoi lên vì còn chín đứa con thơ đang cần sự bảo bọc của Mạ.

Sau khi đám Ba rồi thì Mạ không còn hy vọng là anh P. còn sống. Mạ thường nói "Nếu nó không bị giết thì cũng chết vì bệnh sưng đầu voi" (bệnh chảy máu nội ở khớp gối).Vậy mà có hôm, khá lâu sau đó, tôi nghe Mạ kể chuyện với bà bạn "Tui nằm mơ thấy anh L. tui và thằng P. Anh L. chỉ nhìn tui một cách buồn bã còn thằng P. nằm trong cáng, tui chạy tới gần thì thấy cái chân hắn còn nhúc nhích. Chắc hắn còn sống..."

Không dám tin tưởng ở thực tại, Mạ đã đem niềm hy vọng vào trong mơ.

Ôi! Mạ của con!

Ôi! Những người mẹ Việt Nam!

Mạ mất chồng khi mới ba mươi chín xuân xanh, bơ vơ với bầy con thơ chín đứa.

Mỗi lần Xuân về, tôi lại nhớ đến Ba và thương các em vô vàn. Ai đã nỡ ép vành khăn tang trắng trên đầu các em bé dại, chưa hưởng trọn tình phụ tử?

Vì ai mà Mạ trở thành goá phụ trẻ, chúng tôi trở thành những đứa bé mồ côi cha?

Vì ai! Vì ai! Vì ai?!?!

Hỏi Trời, Trời cũng lặng thinh

Hỏi Đất, Đất cũng quay mình làm ngơ!

Hỏi ai? Hỏi đến bao giờ?

 
Một vết nhơ lịch sử cho đến giờ không ai dám nhìn nhận và những thủ phạm năm xưa vẫn chối tội, đổ lỗi lẫn nhau.

Dù năm mươi năm, một trăm năm, hay một ngàn năm sau nữa, dù cuộc tàn sát này bị chính quyền Việt Cộng không cho ghi vào sử xanh, thì cũng đã khắc ghi trong tâm khảm của những gia đình nạn nhân cho đến đời con, đời cháu, chít.

Vô vàn ký ức của nhân chứng đã được ghi lại, đã trở thành những bản cáo trạng hùng hồn không thể chối cãi cho đến đời đời.

Ngày giỗ Ba năm nay, con ở nơi phương xa hơn nửa vòng quả đất. Con chỉ có mâm cơm chay đạm bạc và nén hương chân thành nguyện cầu Ba và tất cả các vong linh oan uổng trong cuộc tàn sát Mậu Thân 1968 sớm siêu sinh miền Tịnh Độ.

Susan Nguyễn

Reader's Comment
6/14/201814:39:02
Guest
Bài viết về một gia đình đi tìm xác những người thân bị thảm sát , bị mất tích này quá hay, không những người Việt cẩn đọc mà còn cẩn được dịch ra ngoại ngữ để chia xẻ với những người nước ngoài.

Xin chia buồn cùng tác giả , và cám ơn tác giả đã tường thuật lại nhiều chi tiết đáng được biết tới của cuộc đi tìm xác người năm Mậu Thân 68.
6/14/201810:40:09
Guest
Đọc bài nầy xong, tôi thấy như vong hồn Bác Hồ đang hiển linh đâu đây.
Hình ảnh trong bài viết còn vượt xa với những gì tôi thấy được trên TV trong những năm vừa qua về sự tàn bạo của bọn khủng bồ Hồi giáo.
Xin chia buồn với tác giả và gia đình. Ước mong toàn thể dân Việt sớm thức tình.
Send comment
Off
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Your Name
Your email address
)
Add a posting
Total View: 4,904,180
Chương trình Việt Báo Viết Về Nước Mỹ khởi sự từ Tháng Năm năm 2000. Ngay trong những ngày đầu tiên, có bài “Gia Đình Tôi Tới Mỹ” của Nguyễn Thị Phi Phượng.
Chương trình Việt Báo Viết Về Nước Mỹ khởi sự từ Tháng Năm năm 2000. Ngay trong những ngày đầu tiên, có bài “Gia Đình Tôi Tới Mỹ” của Nguyễn Thị Phi Phượng. Tác giả ngày ấy vừa định cư Mỹ 4 tháng.
Chủ Nhật tuần này là Father’s Day 2018 tại Hoa Kỳ. Mời đọc bài viết về thân phụ của một nhà giáo. Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt Bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Chủ Nhật tuần này là Father’s Day 17-6-2018. Mời đọc bài của Phan, nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Tác giả đã nhận giải Việt Bút Trùng Quang trong chương trình Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà là nhà giáo dạy ngôn ngữ và văn hóa Việt tại Hoa Kỳ và là tác giả Kim Dzung Phạm, sách “Vietnmese: An Intro-ductory Reader” đã được Viện Việt Học và University of California, Riverside xuấn bản lần đầu trong năm 2008.
Tác giả là một nhà giáo tại Việt Nam. Sang Mỹ, bà có 10 năm làm việc trong ngành du lịch, hiện là cư dân Little Saigon. Với sức viết mạnh mẽ, Phùng Annie Kim đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2016. Sau đây, thêm bài viết mới của bà.
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà hiện có tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ mười chín, 2017-08. Sau đây là bài viết thứ 11 trong năm.
Capvanto là một bút hiệu khác của Philato, có lẽ do lối viết cách điệu từ Tô Văn Cấp, tên thật tác giả. Ông sinh năm 1941, từng là một đại đội trưởng thuộc TĐ2/TQLC, đơn vị có biệt danh Trâu Điên. Với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải Á Khôi, Vinh Danh Tấc giả VVNM 2014. Năm mươi năm sau Mậu Thân, tác giả đã góp thêm niều bài viết đặc biệt. Nhân mùa Father’s Day đang tới, ông góp thêm bài viết về các cô nhi của tử sĩ VNCH hiện sống trên đất Mỹ.
Từ ngày Một tháng Bẩy 2018, giải thưởng Việt Báo Viết Về Nước Mỹ sang năm thứ hai mươi. Bài viết đầu tiên của Tố Nguyễn tới vào tháng Sáu, tháng cuối của Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX - 2017-18.
Vài hàng vềû tác giả: Trước 1975, là Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp. Định cư tại Hoa Kỳ từ 1985. Công việc: High School Teacher; College Instructor, sau đó là Social Worker. Về hưu tại Westminster, từ 2002. Năm 2005, tác giả đã nhận giải đặc biệt Viết về Nước Mỹ. Sau đây là hồi ký của ông dành cho loạt bài “Tưởng nhớ 50 năm trận chiến Tết Mậu Thân 1968 - 2018.”.
Nhạc sĩ Cung Tiến