Hôm nay,  

Tháng Tư & Quê Hương Thứ Hai

21/04/202210:43:00(Xem: 4220)



30 thang 4

 


Tác giả định cư tại Pháp nhưng thường lui tới với nước Mỹ, tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010. Họp mặt giải thưởng năm 2011, bà đã bay từ Paris sang California để nhận giải Vinh Danh Tác Giả - thường được gọi đùa là giải Á Hậu. Tháng Tư đến với nhiều suy nghiệm, bài viết của tác giả là một trong vô số câu chuyện của người Việt sau biến cố lịch sử tang thương tháng 4, 1975.

***

Sáng ngày 30 tháng 4, tên giặc nằm vùng yêu cầu quân cán chính VNCH buông súng, đầu hàng CS bắc việt, đó là phát súng cuối cùng hắn vào đầu công dân Miền Nam Việt Nam.

Hơn 20 năm chiến đấu cho Tự Do, bao nhiêu thế hệ cha anh hy sinh tuổi xuân sống chết, tàn phế vì Tổ Quốc để cuối cùng bị tên phản quốc dồn đến đường cùng, ê chề đắng cay đến trào nước mắt tủi nhục.

 

Sau vài ngày loạn lạc Miền Nam như bãi tha ma xác chết đó đây dọc đường chạy giặc ngay trên quê hương mình, cuộc chiến cuối cùng giữa lòng Sàigòn, xác chết từ ngoại ô vào tận thành phố.

Người sống chạy, chạy mãi, niềm tin rơi rụng dọc đường đến cạn kiệt khi họ chạy đến điểm dừng cuối cùng của đất Việt, phía trước là biển cả bao la, giấc mơ Tự Do xa dần, mịt mù ngàn khơi.

 

CS bắc việt chơi cú lừa thế kỷ, lấy mạng cựu quân cán chính VNCH trong trại tù cải tạo khiến không ít người bỏ xác nơi rừng sâu nước độc, bị hành hạ đến chết, có sống sót trở về cũng tàn phế hiểu theo nghĩa nào vẫn đúng.

 

Lúc bố tôi còn sống, sau tháng 4 đen, mỗi lần gặp gỡ bạn bè các cụ đấm ngực tự trách không nổi chính thế Cộng Hòa mà quân dân Miền Nam đã đổ bao nhiêu xương máu, để hôm nay con cháu phải lãnh chịu hậu họa.

 

***

 

Hơn mười năm trước tôi có gặp lại vài người bạn của bố bên Mỹ, hôm đến thăm bác Tân, bác nhắc đến bố, tôi cắn răng ngăn dòng nước mắt chực trào sợ khơi lại nỗi buồn thiên thu của chú bác thế hệ bố tôi.

 

Bác là bạn thân của bố được con trai duy nhất là anh Tưởng bảo lãnh qua Mỹ, lúc đó bác gái đã mất, anh cùng hai con trai vượt biên đến đảo năm 80 sau đó đi định cư ở đây, giọng bác buồn hiu khi nhắc đến chuyện gia đình anh Tưởng.   

 

Tôi biết anh chị trước năm 75, anh Tưởng cùng đơn vị Thiết Giáp với anh Cả của tôi, một lần về phép anh nhắn gia đình tôi đến nhà lấy gói thuốc Nam anh Cả gửi cho bố.

Tôi biết anh Tưởng nhưng không biết chị, hôm đến nhà lấy thuốc cho bố là lần đầu gặp chị trước năm 75 tôi đã mến tính dễ gần của chị.

Đàn bà hai con trông vẫn mồn con mắt, đẹp người, đẹp nết, chị là dược sĩ vừa trông tiệm thuốc tây vừa chăn hai con trai trong lúc anh đóng quân tận miền Trung.

 

Ngày anh Tưởng đi tù cải tạo, tiệm thuốc tây bị tịch thu, may còn căn nhà riêng để chị và hai con nương nấu, cũng như bao vợ lính, chị lăn lộn chợ trời đến kiệt sức cũng chỉ đủ cơm cháo cho con. Sau này có chợ thuốc tây đường Huỳnh Thúc Kháng, chị làm ăn khá hơn nhưng rủi ro cụt vốn khó tránh khi đám con buôn tranh giành mối lái báo công an hốt dân thuốc tây trọn gói.

 

Chị vô cang cũng bị vạ lây, trắng tay sau cuộc càng quét, khóc hết nước mắt trên đường về nhà, trắng đêm suy nghĩ mãi sáng hôm sau đưa hai con gửi nhà nội, chị mượn mẹ chồng ít tiền đi buôn.

Một gã Chợ Lớn thích chị đề nghị hùn vốn, chị lắc đầu một lần, hai lần… đến lúc cụt vốn không còn mượn được ai nữa chị đành gật đầu chung vốn làm ăn.

 

Cộng tác với hắn chị làm ăn phát tài, sau này chị mới biết hắn nhận phần hùn của công an nên tồn tại bền lâu, dù sao hắn cũng là chỗ dựa an toàn của chị trong lúc này.

Hai năm chung vốn, tình thầm của gã Chợ Lớn càng ngày càng nồng nàn dù hắn chưa lên tiềng, để cắt đứt hy vọng của hắn chị thường nhắc đến anh và nói rất mong ngày anh trở về.

Từ lúc đó hắn trở nên ít nói dù vẫn tiếp tục buôn bán với chị, thái độ đó khiến chị mến phục gã không hồ đồ, không lợi dụng chuyện buôn bán làm áp lực với chị.

 

Năm 78 hắn rủ chị và các con đi bán chính thức với hắn, chị từ chối vì không đủ tiền, hắn đề nghị cho chị vay trước trả sau.

Chị bảo chờ chồng về mới quyết định được, tội nghiệp gã si tình tiếp tục ôm mối tình câm.

 

Ngày anh được thả về, chị nghỉ bán ở nhà, hai ngày sau gã si tình ngồi trước ngõ nhà chị chờ chị đi chợ, chị biết sớm muộn gì hắn cũng tìm chị.

 

Hôm đó chị báo tin vui cho hắn biết, cảm ơn hắn quan tâm gia đình chị và chị sẽ trở ra chợ tuần sau.

Đêm hôm đó chị kể cho anh chuyện buôn thuốc tây nhờ gã Chợ Lớn giúp đở nên sắm được ít vàng phòng thân, chị không dấu anh chuyện hắn thích chị, nhưng chị vẫn một lòng yêu anh.

 

Vì anh bị quản thúc tại gia nên không thể theo chị ra chợ thuốc tây, anh thay chị lo cơm nước cho hai con, chị may mắn có người chồng tự trọng, không hề lớn tiếng trấn áp vợ để che đậy mặc cảm ăn nhờ cơm vợ.

 

Trở lại chợ thuốc tây nhưng chị luôn nghĩ đến chuyện đưa anh đi vượt biên nên không còn nhanh nhẹn như lúc trước, buôn bán cầm chừng, thẩn thờ như người mất hồn.

Niềm vui đoàn tụ với chồng dù còn nóng hổi, lòng chị luôn đeo mang trọng trách đưa chồng chạy trốn CS, dù nguy hiểm chết người nhưng chị biết anh khó sống sót với chế độ CS tàn độc.

 

Một hôm chị nói với gã Chợ Lớn ý định lo đưa anh vượt biên và nhờ hắn tìm giúp mối lái, sau khi đưa chị đến gặp người tổ chức, chị ra về buồn hiu, vốn liếng chưa đủ cho anh và hai con cùng đi, may mà chị chưa bật mí cho anh biết tin này.

Rồi chị cấn bầu, anh chị nửa mừng nửa lo cho các con khó có đường sống với chế độ này, tuy nhiên hạnh phúc có thêm đứa con đã lấn át nỗi lo của anh chị, cả hai ước mơ đứa con thú ba sẽ là con gái.

 

Cái bầu càng ngày càng to, gã Chợ Lớn tuy kém vui vẫn lịch sự chúc mừng chị, chuyện đưa anh đi vượt biên chị tạm gác qua một bên, chờ ngày con ra đời rồi sẽ tính với anh.

 

Không đành lòng để chị nặng nề đi buôn, anh bảo chị giới thiệu anh với gã Chợ Lớn để anh thay chị lo toan cho gia đình.

 

Chị ngạc nhiên hỏi :

- Anh không tự ái theo gã kia đi buôn ?

 

Anh cười nhìn chị âu yếm :

- Không mang ơn hắn thì thôi sao lại ghét người ta, em đẹp người, đẹp nết gã không mê mới lạ. Những ngày ở tù cải tạo anh học được bài học quý giá, NHÂN CÁCH, ĐẠO ĐỨC món quà Thượng Đế ban tặng cho chúng ta mà không phải ai cũng nhận biết điều đó để sống cho ra người.

Khi em thú nhận gã Chợ Lớn si mê em, anh biết em nói thật, anh thật hạnh phúc tin chắc em luôn yêu anh dù anh không còn đeo lon Đại Úy hiên ngang như ngày xưa, tệ hơn là tên ăn bám vợ.

Anh thật sự quý mến gã Chợ Lớn, rất đàn ông, rất đàng hoàng, si vợ người công khai và chấp nhận là kẻ bên lề khi bị từ khước.

Em tin anh đi, hắn sẽ giúp anh thay em chạy chợ, mai tan chợ em mời hắn về nhà cho anh nói chuyện.

 

Không chỉ riêng chị ngạc nhiên trước đề nghị của chồng, gã  Chợ Lớn trố mắt nhìn chị, hỏi :

- Ổng muốn theo tui đi bán ?

Chị cười :

- Đúng vậy, anh có giúp không thì nói.

- Có chứ, biểu mai ổng ra đây tui chỉ liền mà.

- Cảm ơn anh, tan chợ anh theo tôi về nhà nói chuyện với chồng tôi cho tiện, được không ?

 

Nhờ ở tù trong rừng nên anh Tưởng mới biết nấu ăn dù không ngon như hàng quán ngoài phố nhưng cũng không tệ, mâm cơm đãi khách có món gà nướng ướp sả ăn với cơm, canh chua cá lóc.

Để hai người dùng cơm ngoài phòng khách, chị xuống bếp ăn cơm với các con, hóng nghe hai người nói chuyện.

 

Tiếng anh oan oan kể chuyện ở rừng thỉnh thoảng bắt được rắn, ếch, gà rừng…đám tù chia nhau xớ thịt mỏng như sợi chỉ vá talon võ xe đạp, nhai mãi không chịu nuốt sợ mất mùi thịt… rừng.

Hai gã đàn ông cụnG ly cười vui vẻ, chị mừng thầm hy vọng gã Chợ Lớn sẽ tận tâm giúp anh buôn bán.

 

Đàn ông có khác, anh lanh hơn chị nhiều, mua bán đắt hàng, gặp lại bạn cũ họ chỉ cho anh cung cấp thêm mấy mối thuốc tây dưới tỉnh, vài tháng ra chợ anh kiếm khối tiền và theo gã Chợ Lớn mua vàng.

 

Ngày chị sinh con gái, hạnh phúc vỡ òa, đứa con mong đợi như ý anh chị dù bé sinh ra trong chế độ ai cũng muốn chạy trốn, nhưng đứa con của tình yêu đủ an ủi số phận hẩm hiu của anh chị lúc này.

Bé Linh như thần hộ mệnh của bố, anh làm ăn càng ngày càng phát đạt, bây giờ anh có cả rổ vàng, lòng anh ôm giấc mơ ra đi nhưng không dám bàn với chị vì con bé còn đỏ hỏn.

 

Thôi nôi của bé Linh, gã Chợ Lớn đến chung vui với gia đình vì lâu nay hắn trở thành bạn thân của anh và không còn xa lạ với hai gia đình bên nội ngoại của cháu.

 

Tàn tiệc anh kéo hắn ra sân to nhỏ một lúc, chờ hắn nổ máy chạy ra khỏi xóm, anh vô nhà phụ chị dọn dẹp tiếp, nội ngoại bạn bè mỗi người một bao thơ, gã Chợ Lớn tặng bé Linh sợi dây chuyền vàng.

 

Đêm hôm đó chờ các con ngủ say, anh vào giường, gác tay lên trán mở lời :

- Em nghĩ sao nếu chúng mình đi vượt biên.

Chị quay sang anh, hỏi :

- Gã Chợ Lớn đề nghị phải không?

- Sao em nghĩ như vậy ?

- Hắn từng rủ em với các con cùng đi với hắn và cho em mượn tiền rồi qua đó trả sau.

Em từ chối, nói chờ anh về sẽ tính nên hắn không đá động đến chuyện đó nữa. Sau ngày anh trở về em có theo hắn gặp chủ tàu tìm chỗ cho anh, lúc đó em không đủ tiền nên không nói cho anh biết. Rồi em cấn bầu bé Linh nên không nghĩ đến chuyện đó nữa.

 

- Hắn không rủ anh, hắn nói chuẩn bị đi. Em nghĩ sao ?

- Con còn nhỏ quá, hay anh đi trước với Toàn và Tín.

-  Anh cũng nghĩ vậy, nhưng anh muốn biết em có đồng ý không.

- Liệu mình có đủ tiền không anh ?

- Em yên tâm, anh chuẩn bị cho cả nhà, nếu em ở lại với bé Linh, em dùng số vàng mua chỗ cho hai mẹ con để tiêu dùng, chờ anh bảo lãnh sau.

 

Gần ngày lên đường anh chị ăn ngủ không yên, nửa mong ngày anh ra đi, nửa lo bao trắc trở khó lường, nhất là hai đứa nhỏ.

Chuyến hải hành năm đó cha con anh Tưởng cặp bến an toàn, anh ở trên đảo hơn một năm trong khi chờ thanh lọc đi Mỹ.

Một năm sau chuyến đi của anh, chị bế bé Linh theo đường dây của gã Chợ Lớn, xuống thuyền lên đường.

 

Ra khơi an toàn, bước vào biển Thái Lan tàu bị bọn hải tặc lên thuyền xô đàn ông xuống biển, cướp bốc, hãm hiếp, bắt cóc và giết cả phụ nữ nếu ai phản kháng.

Khi chúng rời thuyền chỉ còn vài người đàn ông sống sót, họ được chiếc thuyền vượt biên khác vớt lên tàu cặp vào vô đảo Pulau Bidong.

Nghe họ kể lại thảm họa hải tặc, anh Tưởng ngục ngã trước hunG tin vợ con anh vùi xác trong lòng đại dương.

 

Kể đến đây bác Tân nước mắt ràn rụa, đứa con dâu duy nhất mà bác yêu thương đã ra đi trước sự thương tiếc của gia đình bác, bạn bè của anh Tưởng và có cả tôi dù tôi gặp chị chỉ một lần duy nhất.

 

Không riêng gia đình bác Tân mà hầu như gia đình Miền Nam VN nào cũng có người bỏ xác trên biển, em chồng tôi và cô út của tôi cũng bỏ xác ngoài biển Đông hơn bốn mươi năm trước trên đường đi tìm tự do.

 

Tháng 4 luôn nhắc nhớ, chúng ta từ đâu đến đây, chúng ta may mắn hơn người còn ở lại VN, hạnh phúc hơn người bỏ xác trên biển, hãy sống xứng đáng với cái giá chúng ta phải trả mới có ngày hôm nay.

 

Hãy tôn trọng và nhớ ơn đất nước đã cưu mang gia đình chúng ta, QUÊ HƯƠNG THỨ HAI đã đón nhận và giúp đỡ chúng ta, nơi đây là điểm dừng cuối đời của chúng ta và là Quê Hương thật sự của con cháu chúng ta.

 

 

Đoàn Th

Ý kiến bạn đọc
23/04/202215:29:09
Khách
Một bản tin đọc được trên net:

" 28 tháng 4 2021 - Một quán cà phê ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai vừa bị cơ quan chức năng đóng cửa do có nhiều hình ảnh "quân ngụy".

"Đầu tháng 4, quán Army's Coffee and Tea khai trương trên đường Võ Thị Sáu, thành phố Biên Hòa.

"Ở bên ngoài, người ta thấy nhiều bao cát có in chữ "Army" được chồng lên nhau. Nhiều vật dụng thời chiến, hàng thật hoặc giả, được trang trí khắp nơi: chiếc kệ mô phỏng thùng đạn, hình ảnh xe tăng và cả tiểu cảnh có xe bọc thép cùng binh lính như đang sắp sửa bước vào cuộc chiến. Nhân viên của quán phục trang theo phong cách nhà binh.

"Các nhóm Facebook được cho là dư luận viên như Giải độc thông tin, Chống phản động… kịch liệt chỉ trích quán Army, nhân tiện lên án chính thể VNCH.
"Chỉ còn vài ngày nữa là cả nước từng bừng kỷ niệm ngày hội non sông thu về một mối thống nhất, thì chủ quán lại khơi dậy hồn ma bằng hình ảnh nhân viên phục vụ mang mặc quần áo rằn ri của lính chế độ cũ, hình xe tăng, thiết giáp M113, lô cốt, các mô hình ấp chiến lược, khu quân sự…," một "người" có tên Hào Đơ viết trong nhóm Facebook 500 Anh Em Sài Gòn.

" Một "người" có tên Quang Pham viết trên Facebook: "Đề nghị các ngành chức năng xử lý nghiêm hành vi này."
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 540,248
Mấy nay công việc trong hãng chậm quá, đơn hàng hổng có, mọi người tụm năm tụm ba nói dóc, bàn tán cả ngày. Mỗi nhóm có đề tài khác nhau. Nhóm đen tụi thằng Kieth, thằng Eddie, thằng Aaron… thì lúc nào cũng chuyện cá độ bóng chày, bóng rổ, bóng cà na, chuyện cầu thủ này chơi đẹp, cầu thủ kia xuất sắc, chuyện thằng Willi tát xướng ngôn viên trên thảm đỏ giải Oscar… Nhóm gốc mít như anh Tuấn, thằng Khôi thì toàn chuyện Việt kiều về nước ăn chơi, chuyện ông này bà nọ ăn bẩn...Nhóm thằng Andre, Jose… thì tám chuyện Mễ Tây Cơ. Nhóm đàn bà thì hổng biết nói chuyện chi nhưng chưa bao giờ thấy miệng nghỉ ngơi, kể cả lúc ăn uống, tám liên tu bất tận.
Dưới ánh nắng chiều chói chang, nhìn những quân nhân huấn luyện oai vệ với tác phong nghiêm chỉnh, các nam nữ tân binh mạnh mẽ, nhanh lẹ trong quân phục của người lính, ba-lô nặng trĩu trên vai đi đứng thao tác gọn gàng ngoài sân trường, các cô cậu học sinh thích thú xầm xì to nhỏ với người thân. Đi ngang cổng chính chúng tôi thấy câu phương châm của trường được ghi đậm trên cao “ We will not lie, steal, or cheat, nor tolerate among us anyone who does ” như một huấn từ của khóa sinh. Kế tiếp, chúng tôi được đưa tới sân cờ nơi có một bức tường đá đen dài gần ba thước hơi uốn cong có ghi tên các sĩ quan tử trận trong chiến tranh với dòng chữ được khắc như sau “ In Memory Of Our Fellow Graduates Who Have Fallen in Battle.” để mặc niệm!
Viết những dòng tâm can này vào ngày Nguyễn Văn Kỷ Ngọc Thuyền - bé Bi con tôi tròn 46 tuổi, trái tim thương tật của người cha Mai Quan Vinh chỉ khát khao duy nhất một điều, lần cuối trong đời cha được ôm chặt bé Bi vào lòng nghe con khẽ gọi hai tiếng “Cha ơi!…”
Quốc Kỳ của một quốc gia dĩ nhiên luôn luôn phải được tôn kính, yêu mến và trân trọng từ người dân của đất nước đó, bởi mỗi một đất nước vĩnh viễn chỉ có một Tổ Quốc và một Màu Cờ, nhưng bất hạnh thay lịch sử đã ghi lại biết bao nhiêu quốc gia sau cơn binh biến, hay sau những cuộc chiến tàn khốc, đất nước đã phải thay tên đổi họ, và lá quốc kỳ cũng đành ngậm ngùi thay hình đổi dáng cho phù hợp với tình trạng đất nước. Việt Nam của Thu Quỳnh cũng cùng chung số phận bi đát đau thương như thế khi cuộc chiến Nam Bắc tương tàn vừa kết thúc.
Thằng tôi lại lợi dụng mùa đông lạnh lẽo cùng với mùa đại dịch Cô Vi dai dẳng bị nằm nhà tù lỏng nên lấy sơn dầu, khung vải và cọ vẽ vung vít làm vui. Có chị bạn rất thích tranh tôi trưng lên Facebook và than ông trời bất công quá vì tài vẽ vời và viết văn vớ va vớ vẩn của tôi. Thật ra ai cũng có tài năng không ít thì nhiều mà nếu không dùng và luyện tập thì tài năng có hay chi mấy cũng bị hao mòn và mất mát. Nên tôi sáng tác hơi nhiều tranh, chất đầy trong phòng ngủ của cậu con trai đã dọn đi San Francisco làm thầy lang. Hai chúng tôi đã phải bàn nhau “xuất cảng” số lượng tranh trong nhà. Bạn bè ai biết thưởng thức nghệ thuật của mình thì cho không biếu không, khi thì trưng bán trên mạng saachiart.com và Instagram, bầy tranh bán khi mùa garage sale bắt đầu và có khi liều lĩnh dựng lều bán tại các Hội Chợ nghệ thuật địa phương để ai ngưỡng mộ tranh của mình thì khuân về nhà giùm.
Còn niềm sung sướng nào bằng khi được tiếp xúc các đàn chị đàn anh, bậc thầy cô xuất chúng. Mỗi ngày tôi được tắm gội trong biển thơ, và tưởi tẩm suối văn chương. Đọc tác phẩm nào cũng đều thấy có cái hay riêng để học hỏi, tác giả này có lối văn trong sáng, tác giả kia ý tưởng hay, tác giả nọ nội dung câu chuyện luôn hướng thiện, tác giả khác sưu tập những tài liệu bổ ích..v..v...Ngoài ra hội có nhiều trò chơi thú vị như làm thơ nối tiếp vần cuối, nạp bài về chủ đề này hay chủ đề nọ để ra sách, đóng góp câu chuyện ngắn dưới 100 chữ, hoặc mục tán gẫu đùa giỡn của 2 hội đàn bà.
Ông bà trùm Nguyện là một trong những người sáng lập ra họ đạo lẻ này. Ông bà đã bước vào lứa tuổi “bát thập cổ lai hy”, định cư ở đây từ những ngày còn chân ướt chân ráo, hoang mang lẫn vui mừng, bắt đầu cuộc sống mới, tự do trên đất nước được mệnh danh là Vùng Đất của những người Can Đảm (Land of the Braves). Ông Nguyện là một cựu hạ sĩ quan ngành truyền tin của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, vượt biển và đến Mỹ năm 1980. Bà Hồng, vợ ông, cùng 2 con vượt biển 3 năm sau đó rồi đoàn tụ với ông vào năm 1984. Nhiều người tỵ nạn Việt Nam khác cũng dần tìm về đây, họ sống yêu thương và đùm bọc lẫn nhau.
Thấm thoát cho đến nay, khi cộng đồng người Việt tại Nam California phát triển không ngừng, người kéo đến “đất lành chim đậu” ngày càng tăng, các chị đã là những nhân viên thâm niên kỳ cựu tại đây, rành rẽ các luật welfare, an sinh xã hội, góp phần giúp cộng đồng Mỹ và cộng đồng Việt bằng những kinh nghiệm và bằng niềm yêu thích công việc. Nghe các chị kể nhiều câu chuyện, nhiều mảnh đời đó đây mà công việc đã cho cơ hội gặp gỡ, với tất cả niềm vui và hãnh diện, tôi cảm thấy đó cũng là sự thành công trong nghề nghiệp của các chị.
Chồng bà đánh cá ngoài biển, rồi theo người ta vượt biên đi mất. Một tay bà ở lại chèo chống nuôi con. Thời gian đầu không có tin tức gì của ông ấy. Gần chục năm sau mới thấy thơ về, nói ổng đã lấy vợ khác rồi. Ổng xin lỗi bà mong bà thông cảm, vì cuộc sống nơi xứ người khó khăn và bơ vơ quá. Bà kêu thằng hai viết thơ trả lời ba, rằng “Má hiểu hoàn cảnh của ba. Má không buồn đâu. Ba đừng lo, ráng giữ gìn sức khỏe“. Khi đọc những lời đó cho con, mắt bà ráo hoảnh. Nhưng buổi tối bà ngồi nhìn ngọn đèn dầu leo lét, nước mắt ở đâu mà cứ tuôn hoài.
Hôm nay tôi muốn giới thiệu đến bạn đọc một tâm tình khác, một ước mơ to lớn hơn mang tính cách cộng đồng. Hoài bão của một người bạn mà tôi tình cờ quen biết mới đây, có dịp viếng thăm khu vườn cây trái đang hình thành và một ước mơ, muốn khơi dậy tâm tình của cộng đồng người Việt rất đáng khích lệ của anh.Truyện bắt đầu từ vài năm trước, anh liên lạc và đến khu vườn của chúng tôi mua các loại cây giống như: Mận chuông, sapoche, chuối sứ...dần dần nói đến việc mò cua, bắt ốc, câu cá trong hồ, các loại cá anh thích ăn, thỉnh thoảng bắt được các loại cá này thì tôi nhắn tin anh đến lấy.Đường Colonial là trục lộ chính của Orlando, đặc biệt của người Việt. Chúng tôi đi lại trên con đường này hầu như mỗi ngày, trông thấy tấm bảng hiệu để tên Việt Plaza, lại có tượng đức Trần Hưng Đạo thật to ở ngay lối vào. Biết là của người Việt nhưng cũng không để ý lắm. Mới đây anh đến lấy cá và biếu lại một bọc trái trứng cá. Cái xe tải anh lái có dán chữ VIET PLAZA. Hỏi ra mới biết anh chính là chủ củ
Nhạc sĩ Cung Tiến