Hôm nay,  

Thương Con Kiểu Việt Nam

13/11/200200:00:00(Xem: 201645)
Người viết: : Hà Lệ Hương

Bài tham dự số 025\VBST

Hà Lệ Hương tên thật là Nguyễn Thanh Long, Nông dân Quận Cần Đước Sàigòn, vượt biên cùng vợ con năm 1975.
Từng đoạt giải thưởng văn chương năm lần trên các nhật báo Người Việt, Quê Hương, Chim Biển, Điện Ảnh, và nguyệt san Quảng Đà.
Sở thích: vẽ tranh, chơi nhạc, thể thao, viết truyện.


Tôi chưa từng mơ được xuất ngoại, chứ đừng nói đến sang Mỹ. Bằng cớ là tôi mới học tới lớp ba, nhà nghèo, không thân thuộc. Chức lớn nhất của tôi là hạ sĩ nhất.

Cho đến ngày 30 tháng 4, 75, đang đứng gác ở kho Năm, Khánh Hội, tôi bỗng bị đám người đông như kiến cỏ, lấn vô tình. Thế là tôi vượt biên bất đắc dĩ trên chiếc tàu Đại Dương.

Trong những ngày lênh đênh trên biển, tôi không lúc nào dừng tưởng nhớ tới con Thảnh, vợ tôi, và ba đứa con: Thằng Dĩnh, con Ngọ và thằng Đỏm. Tôi tự cảm thấy như mình là người cha vô lương tâm. Nên lên bờ Subic Bay, tôi sống như đứa mất hồn. Bỗng một hôm tôi nghe tin vui: Chiếc Việt Nam tương tín trở về cố hương. Tôi là người ghi tên hồi hương trước nhất. Bỏ qua những lời khuyên vàng ngọc của những người cùng trại. Ngày thứ năm, tôi vác chút áo quần, vài lon gạo, lon ton lên tàu Thương Tín.

Trên đường đi ra bến tàu, dài như con rắn, tôi cũng bị lấn giống như ngày vượt biên. Mặc kệ. Miễn là về nhìn lại được vợ con thì thôi. Tôi bước đi, lòng phấn khởi. Bên cạnh tôi là người cùng tâm trạng. Lúc đó trời đã hoàng hôn. Trời nhá nhem tối, trong cái mờ mờ như hư ảo đó, tôi nhìn thấy trong đoàn người đi ngược lên Subic một đàn bà, ẳm một trẻ thơ, và tay dắt hai con nhỏ. Trời ơi có thể như thế sao" Có thật, hay là cơn mộng"

Người đàn bà đó là con Thảnh, vợ tôi, đang ẳm con út của tôi, và tay dắt thằng Dĩnh với con Ngọ. Tôi đứng lại, dụi mắt ba lần. Người đồng hành tôi hỏi:

- Cái gì thế cha nội. Đừng nổi cơn điên nữa nghe. Sắp về rồi.

- Không. Ai như...như vợ tôi và ba đứa con...Đi ngược lại...

Tôi kkông đợi người đàn ông kia trả lời, dụi mắt lần nữa, và tôi lớn tiếng gọi:

- Thảnh, Mụ Thảnh...Thảnh, anh đây, thằng Đực đây.

Đằng kia, người đàn bà ngó quay lại. Khi nhận ra tôi, Thảnh ẳm con đến, nước mắt chan hòa, ôm chặt lấy tôi, không nói nửa lời. Tôi tách hàng người, ngồi xuống, cùng ôm vợ, con, mà khóc như mưa...

Dĩ nhiên tôi không về Việt Nam nữa. Gia đình tôi ưu tiên đi Mỹ dưới sự bão trợ của hội thiện nguyện Connecticut. Họ phát cho những cái quần tôi mặc tới cổ. Những chiếc áo tôi mặc dài lê thê.

Nhưng thây kệ. Gia đình tôi được sung sướng phủ phê...mặc dù tiếng Anh của tôi không gì nhiều hơn chử Yes và No. Con tôi hai đứa lớn học mẫu giáo, đứa nhỏ nhất gửi cho nhà thờ. Vợ tôi đi gói kẹo. Tôi đi cắt cỏ. Trong sáu tháng làm việc (không lấy gì nhọc nhằn cho lắm) lại được Hội nuôi, nên vợ chồng tôi dành dụm được số tiền trên mười bốn ngàn dollars. Đây là lúc tôi chạm trán với thực tế.

Hội chỉ giúp nuôi đứa bé nhất ban ngày. Còn thì tôi phải tự lo liệu lấy. Tôi phải làm thêm một việc nữa: đi dọn dẹp, các buildings. Nhờ tôi vốn là nông dân, nên các việc như thế, với tôi là đồ bỏ. Tôi làm luôn Thứ Bảy và Chủ nhật. Chủ thương quá cho lên lương. Vì ham làm ra tiền quá, tôi ít gặp được vợ con. Một thời gian dài, các con tôi nói toàn tiếng Mỹ, sống như Mỹ, tự nhiên như Mỹ... Một hôm, khi Dĩnh tắm xong, chải đầu, thay quần áo, gặp tôi:

"Hi Dad, how do you do today""

"Mầy nói cái giống gì vậy Dĩnh""

"What did you say Dad" I can't understand."

"Trời, mới có hai năm mà con quên tiếng Việt rồi sao""

Hình như nó có nhớ mà mở miệng nói không rành nữa. Diễn xuất trên gương mặt thằng nhỏ cho tôi hiểu điều đó. Nó đứng im lặng một khoảnh khắc, rồi bỏ ra đi. Tôi níu nó lại, ôm vào lòng:

"Dĩnh, nói tiếng Mỹ là khi đến trường học, còn gặp cha mẹ anh em ở nhà, con phải nói tiếng Việt chứ..."

Nó, vẫn gương mắt thơ ngây, vẫn cho tôi biết nó có hiểu, nhưng mập mờ câu tôi nói. Hình như nó muốn nói cái gì đó, nhưng lại thôi. Tôi cúi xuống hôn con một cái thật lâu. Và hình như đây là lần đầu, tôi hôn con. Và, theo thói tục Việt Nam, tôi tự nhiên, vô tình, sờ chim nó nựng:

"Nói tiếng Việt đi con, ba "xương" con lắm..."

Hình như tôi nói thế là vì cả hai vợ chồng tôi đều không biết tiếng Mỹ, chứ hoàn toàn không muốn con quên tiếng Mẹ đẻ.

Một lần khác, cũng chính Dĩnh tranh xem TV với mẹ nó. Mẹ nó muốn xem phim bộ Trung Hoa. Nó muốn xem trận đấu bóng rổ. Hai mẹ con lớn tiếng. Đang nằm nghĩ ngơi trên sofa, nghe thế, tôi mắng yêu nó:

"Kỳ cục, nhường cho Mẹ chút không được sao" Tao "giết chết" mày à..."

Một lần nữa, giữa trưa, một bà Mỹ, mang đứa con sưng môi chù vù và bảo: chính Dĩnh đánh con bà đến thương tích.

Nghe tiếng được tiếng mất, tôi đè thằng Dĩnh ra đét cho năm roi.

Năm roi oan nghiệt đó đã để trên mông đít của Dĩnh năm lằn bầm hơi tím. Và cũng chính bà Mỹ đó đến trường Dĩnh mét vanh vách từng chi tiết.

Buổi sáng, đang sửa soạn đi làm, tôi bỗng nghe tiếng gõ cửa vội:

"Ai đó"" Tôi hỏi. "Chờ chút."

"This is Police. May I see Mr. Duc. Duc Van Nguyen""

Nghe tiếng Police, tôi vội mở cửa. Hai cảnh sát sắc phục nhào vào, còng tôi dẫn đi. Cả nhà tôi ngơ ngác, không hiểu lý do. Đến bót, có người thông dịch, và kết tội:

"Ông đã một lần cầm chim em Dĩnh nựng. Một lần ông hăm giết chết nó. Và lần cuối cùng, trên thân thể nó có năm lằn roi bầm tím. Theo pháp luật Hoa Kỳ, ông mang tội Child Abuse, và Child Molestation. Những bằng chứng này do em Dĩnh và bà hàng xóm cung khai. Vậy ông ở đây vài bữa rồi ra tòa."

Đúng, tôi có cầm chim Dĩnh nựng thật. Tôi có nhiếc mắng nó là "sẽ giết" thật. Tôi có đánh nó năm roi bầm tím thực... Nhưng đó là cái mắng yêu, và đánh con cũng vì yêu con... Nhưng Dĩnh đã vào trường mét nguyên văn như đó là chuyện thực.

Trước tòa, tôi muốn nói lên điều đó, nhưng không đủ ngôn ngữ. Cách diễn tả của tôi không ngoài hai chữ Yes và No nguyên thủy. Tôi lãnh ba tháng trong tù và từ đó phải đứng cách xa con mười lăm feet khi muốn nói chuyện với con.

Ba tháng trong tù, tôi mất việc. Vợ tôi phải làm thêm để trả tiền nhà. Tôi tìm việc khác không khó, nhưng cái suy nghĩ về phong tục yêu trẻ em nước Mỹ, bảo vệ trẻ em nước Mỹ, trong đó có con tôi, không biết có hay hơn phong tục Việt không" Câu hỏi này đã làm tôi suy nghĩ...và hình như nó làm tôi có chút hối hận cho tới bây giờ.

Cũng như, cho tới bây giờ, ăn một hamburger để cho no thì có. Nhưng để ngon hơn bát cơm nguội với chén nước cá Việt Nam thì tuyệt nhiên không.

Nhiều chữ KHÔNG lẩn quẩn, ray rứt, thường làm tôi mất ngủ.

HÀ LỆ HƯƠNG

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,277,288
Tác giả lần đầu góp bài. Qua bài viết đầu tiên, đã thấy cách ông viết rất tinh tế, chu đáo, nhiều chi tiết sống động. Mong ông tiếp tục viết về nước Mỹ và vui lòng bổ túc sơ lược tiểu sử cùng địa chỉ liên lạc.
Tác giả sinh tại Saigon năm 1962, hiện cư trú tại Tulsa, Oklahoma. Nghề nghiệp: kỹ sư cơ khí, làm cho hãng Boeing, OKC. Học vấn: cao học. Gia đình: vợ và ba con: hai gái, một trai. Góp bài Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, Lê Như Đức là một tác giả rất được quí trọng. Mừng ông tiếp tục viết.
Tiếp theo chuyện “Saigon 68” đây là một hồi ức Mậu Thân về khu Thành Nội Huế. Định cư tại vùng Bắc Cali từ 20 năm trước, Deborath Tường Vân là nhân viên Sở Xã Hội San Jose và từng chăm sóc Bà Trùng Quang -vị niên trưởng của giải thưởng Việt Báo- liên tục hơn 6 năm cuối đời. Cô đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2012. Hồi ức Mậu Thân của Tường Vân là chuyện kể về khu Tây Lộc trong thành nội, nơi phải gánh chịu nhiều tang tóc nhất trong địa ngục Huế Tết Mậu Thân.
Capvanto là một bút hiệu khác của Philato, có lẽ do lối viết cách điệu từ Tô Văn Cấp, tên thật tác giả. Ông sinh năm 1944, từng là một đại đội trưởng thuộc TĐ2/TQLC, đơn vị có biệt danh Trâu Điên. Với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bài viết mới của ông là một hồi ức về trận chiến năm Mậu Thân, khi Đại Đội TQLC do ông chỉ huy được biệt phái theo tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận chiến Mậu Thân tại Saigon 1968.
Tác giả là cư dân Garden Grove, California, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2018. Ông qua Mỹ trong một gia đình H.O. từ tháng Sáu năm 1994, vừa làm vừa học và tốt nghiệp kỹ sư điện tử. Sau đây là bài viết về nước Mỹ thứ ba của ông.
Tác giả là cư dân Minnesota, đã nhận giải vinh danh tác giả Viết Về Nước Mỹ 2008. Với những bài viết thuộc nhiều thể loại đề tài, cô là một tác giả rất được bạn đọc yêu mến.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014 và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Nhân thời điểm 50 năm sau trận chiến Mậu Thân 1968 Viết Về Nước Mỹ 2018 sẽ có thêm giải thưởng đặc biệt về “Hồi Ức Mậu Thân”. Sau đây, xin mời đọc một bài viết cũ của tác giả Võ Trang, một kỹ sư điện làm việc cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ tại San Diego, kề từ hồi ức đau thương về người cha bị cộng sản chôn sống trong trận Tết Mậu Thân 1968 tại Gia Hội, Huế, khi tác giả còn là cậu bé 15 tuổi. Bài viết đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2009.
Tác giả sinh năm 1929 tại Quảng Trị, Cựu Trung Tá QLVNCH, cựu tù cải tạo. Định cư tại Sacramento, Cali. Năm 1991; Hội trưởng sáng lập Hội Thơ Tài Tử Việt Nam Hải Ngoại từ 1994; Sách đã xuất bản: Truyện ký "Người Trai Thời Chiến"; tập thơ "Chuyện Ngày Xưa"; Từng nhận “Certificate of Recogni-tion do The Sacramento International Poetry Hall of Fame tại Đại Hội Thi Ca Quốc Tế Sacramento 2006; Tác giả hiện là cư dân thành phố Garland, Texas và là Hội Trưởng Hội Người Việt Cao Niên Dallas nhiệm kỳ 2016-2017. Cho tới nay, với tuổi 89, ông cũng là vị tác giả cao niên nhất trong năm 2018 dự Viết Về Nước Mỹ. Kính chúc ông vui khỏe.
Nhạc sĩ Cung Tiến