Hôm nay,  

Nỗi Buồn Xa Xứ

13/11/200200:00:00(Xem: 191429)
Người viết: Lê Phạm Xuân Hồng

Bài tham dự số 38/VBST

Bà Hồng sinh năm 1936, nguyên là giáo viên tiểu học lúc còn ở quê nhà. Bài viết của bà Hồng kể chuyện một chuyện buồn gia đình: bà mẹ chồng đành phải đi "trông nom con người ta" vì không thể ở nổi với vợ chồng người con trai, dù chỉ để trông nom dùm đứa cháu nội mà bà rất yêu quí.


Đêm đã khuya mà tôi không tài nào chớp mắt được. Tiếng đứa con dâu nói từ ban chiều vẫn còn văng vẳng bên tai tôi:

"Anh hãy chọn lựa đi. Một là mẹ, hai là em và con, chứ em không chịu nỗi cảnh này nữa đâu!"

Tiếng thằng con trai tôi nhỏ nhẹ giải hòa:

"Thì mẹ vẫn ở nhà trông cháu, hằng ngày chúng ta đi làm từ sáng đến tối, mẹ vẫn chu toàn nhiệm vụ, nào tắm rửa, nào cho cháu ăn. Không có mẹ thì em phải thuê người giữ tụi nó, vừa tốn tiền mà lại không chắc gì cẩn thận và chu toàn hơn mẹ, phải không""

Con dâu tôi vẫn giữ lập trường của nó:

"Cẩn thận cái nổi gì" Mới tuần trước mẹ để nó bò lê bò lết ở sàn nhà, vừa bẩn lại vừa bị đụng đầu vào bàn, đau quá khóc thét lên, anh còn nhớ không" Em không chịu nổi bà già cổ hủ đó nữa đâu!"

"Em không được hỗn với mẹ".

Vừa nói, con trai tôi vừa sấn tới gần vợ nó, tay giơ cao định tát. Từ buồng trong, tôi vội vàng tông cửa chạy ra để cản ngăn thằng con kẻo nó đánh vợ thì nhất định vợ nó sẽ gọi cảnh sát và sự việc sẽ trở nên tồi tệ hơn. Nhưng may sao, tôi chưa ra đến nơi thì con tôi đã kịp dừng tay. Tánh tình nó tôi biết, thường ngày hiền lành ít nói nhưng cộc tánh, chẵng hiểu sao hôm nay, cám ơn phật trời, lại dằn được.

Tôi đứng giữa hai đứa, cất tiếng nói đầy nước mắt:

"Các con đừng cãi nhau nữa, Mẹ đã tìm được chỗ làm rồi. Một tuần nữa, người ta sẽ đến đưa mẹ đi đến nhà người ta để trông nom con người ta và ở lại đó luôn. Mẹ không muốn hai con phải vì mẹ mà chia tay, vì mẹ quá thương cháu nội của mẹ nữa."

Con trai tôi chận lời ngay:

"Không! Mẹ không phải đi đâu cả. Đây là nhà của Mẹ, mẹ cứ ở lại đây. Con không muốn mất mẹ, mất vợ thì còn..."

Tôi biết con tôi muốn nói điều gì nhưng sợ quá đà thì vợ nó lại làm ồn lên nên tôi cố mở nụ cười héo hắt:

"Thì có mất mẹ đâu mà các con lo. Thỉnh thoảng mẹ về thăm cháu, thăm con luôn. Mẹ hiểu tấm lòng hai con và mẹ không muốn hai con sống mà cứ hục hặc vì sự hiện diện của mẹ mà mất hạnh phúc."

Thế rồi tôi trở vô phòng. Bữa cơm tối diễn ra buồn tẻ. Dọn dẹp xong, tôi chơi với thằng cháu nội một lát rồi giao lại cho mẹ nó, quay vào phòng.

Tiếng chuông đồng hồ thong thả buông ba tiếng, tôi vẫn nằm chong mắt nhìn lên trần nhà. Đêm đã khuya, ngoài đường đã vắng tiếng xe qua lại. Có tiếng chim ăn đêm bay ngang qua, buông tiếng kêu rời rạc buồn tẻ. Tiếng chim lạc lõng cô đơn làm tôi liên tưởng đến thân phận mình.

Ba năm về trước, khi thằng con trai gởi thư về ngỏõ ý lập hồ sơ bảo lãnh cho tôi qua đoàn tụ, tôi viết thư từ chối ngay: "Mẹ không muốn rời bỏ quê hương, nơi có mồ mả ông bà tổ tiên nội ngoại, nhất là có nấm mồ của ba con. Ba con mất đi trong cuộc chiến, trong những ngày tàn khốc nhất để làm tròn chữ trung với tổ quốc Ba chỉ mong con, đứa con duy nhất của ba mẹ, lớn lên học hành thành đạt và nên người. Nay, con đã lấy được mãnh bằng kỹ sư nơi xứ người, đã có vợ và sắp làm cha, đó là những gì mẹ mãn nguyện lắm rồi và chắc là ba con cũng đang mỉm cười nơi chín suối."

Nhưng những lá thư sau dồn dập gởi về làm tôi không thể từ chối được cái tấm lòng hiếu thảo của nó: "Thưa mẹ, con hiểu nỗi lòng của mẹ. Từ khi ba con mất đi, dù còn tuổi xuân nhưng mẹ vẫn ở vậy thờ chồng nuôi con. Với đồng lương ít ỏi của một cô giáo tiểu học, mẹ vẫn dành cho con những gì đầy đủ nhất để khỏi thua kém bạn bè ở lớp ở trường. Con không thể nào quên được nét mặt vui tươi rạng rỡ của mẹ khi con báo tin con thi đỗ trung học. Mẹ thắp nhang trên bàn thờ ba, lâm râm khấn vái, và rồi mẹ khóc. Những giọt nước mắt sung sướng tự hào vì mẹ đã hoàn thành một phần nhiệm vụ với người đã khuất. Những cực nhọc đã qua nay đã có một phần đền đáp. Nhưng khi con xin phép cho con đi tìm việc làm khoan vào đại học, có thêm đồng lương để phụ mẹ đỡ ngược xuôi gian nan trong cuộc sống thì mẹ giận ngay: "Tôi có què quặt gì đâu mà anh phải đi làm nuôi tôi. Thôi thì anh cứ kiếm việc còn tôi thì vào chùa tôi tu." Con vội vàng thi vào đại học. Và thời cuộc dồn dập xảy ra, mẹ thôi dạy học, mở một quán nhỏ ngay trước hiên nhà, buôn bán tạp hóa. Mẹ nhịn đói nhịn khát, chắt chiu từng đồng một cho con vượt biển đi tìm tương lai. Trầy truột bốn năm lần thì con thoát. Lúc con đặt chân lên đảo Bidong thì đôi mắt mẹ đã thâm sâu vì bao nhiêu lo lắng dồn dập, vì bao đêm mất ngũ. Con nhớ những sáng trời lạnh, mẹ dậy sớm đễ ra chợ mua thêm hàng về bán, cơm nguội tối hôm qua vẫn còn trong nồi nhưng mẹ không ăn, sợ con dậy sau ăn không đủ. Mẹ thường nói với con là ăn không no thì học chữ không vô. Mẹ nhịn cho con no, mẹ chắt chiu cho con có tương lai và nay con đều có cả mà mẹ thì vẫn vò võ ở quê nhà, cò mẹ vẫn lặn lội bờ ao thì thử hỏi con có xứng đáng là con của mẹ hay không" Thưa mẹ, con tin rằng khi biết con bảo lãnh mẹ qua sum họp với con bên này thì ba con chắc rất là vui mừng lắm."

Thế rồi phỏng vấn, rồi có nhập cảnh, tôi sang Mỹ đoàn tụ với con sau gần năm trời hoàn tất thủ tục. Phải công nhận một điều là vợ chồng nó thương nhau lắm. Chúng nó có học vấn, đi làm cho những hãng có tiếng tăm, thu nhập chắc khá lắm mới có căn nhà thật lộng lẫy, trang trí toàn đồ Ý đồ Pháp mắc tiền.

Thằng cháu nội sinh ra càng làm cho không khí hạnh phúc của chúng nó thêm nhiều hơn. Nuôi thằng cháu nội hàng ngày, tôi mừng thầm trong bụng vì tông đường đã có người nối dõi. Nhưng có điều mà mãi đến giờ tôi mới nhận ra được: con dâu tôi không muốn mẹ chồng sống chung trong gia đình. Không biết nhận xét tôi có đúng hay không nhưng vì tôi là người đàn bà Việt Nam đã từng làm dâu, nhất là làm dâu trong gia đình gốc Huế cổ kính, cho nên luân lý đạo đức cổ truyền Việt Nam vẫn luôn tồn tại trong tôi.

Đáng lẽ tôi phải nhìn nhận sớm hơn cuộc sống ở Mỹ này khác nhiều hơn cuộc sống ở quê nhà thì chắc con dâu tôi không gọi tôi là "Bà già cổ hủ". Nhưng thật mà nói thì tôi hoàn toàn không giận gì nó vì tôi thương thằng con trai có hiếu của tôi, và thương thằng cháu nội mà tôi mong ước từ lâu, không muốn gia đình nó xáo trộn.

Câu chuyện ban chiều mà tôi buộc miệng nói ra bây giờ lại làm tôi lo lắng. Từ khi qua Mỹ đến nay, nào mấy khi tôi ra khỏi nhà vì mình chẳng quen biết ai. Tìm được chỗ làm chỉ là một lời nói dối mà trong lúc quá cấp bách, tâm trí tôi đã mách bảo như vậy để qua cơn sóng gió gia đình.

Chuông đồng hồ lại buông năm tiếng, tôi vẫn chưa ngủõ được, cứ trở trăn mãi. Cái nệm dày và êm mọi khi nay lại thấy cưng cứng, không thoải mái như cái chõng tre trong gian nhà nhỏ ở quê An Cựu, nhưng rồi cũng thiếp đi lúc nào cũng không biết.

Trong giấc mơ, tôi thấy một ngọn đèn nhỏ luồn lách từ hẽm này sang hẽm khác với tiếng rao khàn đục lê thê: "Ai...hột vịt lộn..." Đúng rồi, tiếng rao đêm của người bạn giáo viên dạy cùng trường, con đông mà ông chồng lại nghiện ngập nên ban ngày đi dạy, tối đi bán hột vịt lộn kiếm thêm tiền. Khi đi ngang qua nhà tôi, chi ngưng tiếng rao và cố đi nhanh, ánh đèn con hắt hiu đong đưa theo nhịp chân của chị. Đứng trong bóng tối nhìn theo bóng dáng gầy còm của chị, nước mắt tôi cứ tuôn rơi. Tôi thương chị, biết bao giờ chị mới hết khổ, hay cuộc sống hẩm hiu cứ bám lấy chị cho đến ngày chị xuôi tay nhắm mắt.

Mộng và thực, thực và mộng cứ quyện lấy nhau làm cho tôi bàng hoàng, không biết rằng mình mơ hay tỉnh. Tôi nhớ đến Cồn Hến nơi có giống bắp vừa ngọt vừa bùi, lại vừa túi tiền của người bình dân. Tôi nhớ con đường Nam Giao thẵng mà không bằng, một chiều cuối năm tôi cầm bó nhang đi thăm mộ chồng trước khi xuất cảnh. Trong cảnh vắng lặng chiều hôm, tôi nghe rõ từng tiếng chuông chùa Linh Mụ thu không. Khói nhang bay nghi ngút, tôi vừa nhỗ cỏ vừa tỉ tê trò chuyện cùng chồng: "Không biết có phải lần này là lần cuối em viếng mộ anh hay không" Thôi thì sống khôn thác thiêng, anh hãy phù hộ cho em đi đường bình an để đoàn tụ với con, để nuôi cháu nội."

Sáng hôm sau, vợ chồng nó đi làm và tôi thì trông cháu như thường lệ.

Lúc dọn dẹp phòng khách, tôi chợt nhìn thấy tờ báo Việt ngữ dưới chiếc bàn nhỏ mà thỉnh thoảng con tôi đem về để mẹ đọc giải trí. Trong tờ báo này có mục tìm việc làm và có các gia đình tìm người giữ trẻ. Tôi ghi lại những địa chỉ và số điện thoại cần thiết, gọi liên tiếp đến gia đình thứ năm mới gặp được một cô người Huế, chồng ly dị hiện sống với hai con. Tôi được ăn ở luôn trong nhà cô ấy, khi nào muốn về thăm con và cháu, cô ta sẵn sàng đưa về thăm.

Nhưng khó khăn nhất vẫn là giây phút chia tay. Một buổi sáng chủ nhật, tôi đợi hai đứa ra phòng khách rồi lên tiếng:

"Sáng nay sẽ có người đến đón mẹ về giúp trông nom nhà cửa và hai đứa trẻ. Đó là cháu gái gọi mẹ bằng dì chứ mẹ không đi ở đợ với người dưng, hai con cứ an tâm."

Thằng con trai chạy đến ôm chầm lấy mẹ và khóc rấm rức như đứa trẻ lên ba: "Rõ ràng là con bất hiếu và bất lực. Đến cuối cuộc đời mà mẹ vẫn hy sinh."

"Không con ạ, khi nào mẹ cũng hiễu con và đặt hạnh phúc của con lên trên hết, con ngoan của mẹ."

Tay tôi vỗ nhẹ lên tấm lưng vạm vỡ của nó như ngày xưa tôi từng ru nó bằng những câu ca dao trên chiếc võng đay cột ở chái nhà. Đứa con dâu mở tủ, lấy ra hai bộ quần áo, ý chừng mới mua rồi đặt vào chiếc xách tay nhỏ của tôi.

"Mẹ đem theo mấy cái này để mà thay đổi."

"Mẹ cảm ơn con."

Có tiếng chuông reo ngoài cửa. Cô gái Huế xuất hiện, khuôn mặt phúc hậu và theo lời dặn trước của tôi trên điện thoại, cô cất tiếng:

"Cháu chào Dì, chào hai em. Dì đưa cháu xách đồ dì cho."

Rồi quay sang hai đứa , cô nói tiếp:

"Hai em đừng buồn. Thỉnh thoảng chị đưa dì về thăm. Nhà chị cũng ở gần đây." Tôi vội vàng ôm hôn đứa cháu nội và như sợ nếu chậm trễ phút giây nào, tôi không thể rời khỏi nơi đây, tôi theo gót cô gái ra cửa, không quay đầu lại.

Nỗi buồn vẫn còn đó nhưng dù sao, hạnh phúc mong manh của con tôi đã tạm thời hàn gắn. Đó là niềm an ủi duy nhất của những ngày còn lại cuối đời tôi.

Lê Phạm Xuân Hồng, Ngày 10 tháng 6 năm 2000

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 866,049,382
Tác giả sanh năm 1943 tại Cân thơ - Bác sĩ thú y, giảng dạy tại Đại Hoc Cần thơ trước 75 - Cùng gia đình vượt biên năm 1980. Học lại và làm việc cho cơ quan Canadian Food Inspection Agency từ 1985 đến ngày hưu trí năm 2008. Bài đầu tiên Viết Về Nước Mỹ, Đất Lành Chim Đậu nhận giải Vinh Danh Tác giả năm 2007. Sau 10 năm tiếp tục góp bài cho Việt Báo, tác giả cho biết “Vì lý do sức khỏe bất ngờ, xin chào tạm biệt tất cả bạn đọc để tĩnh dưỡng. Và đây là bài viết cuối cùng của ông: Chuyện hai mùa Vu Lan 2016-2017, con trai lái xe hàng ngàn dặm về cùng bố lát gạch sân đậu xe và tu sửa ngôi nhà gia đình. Việt Báo Viết Về Nước Mỹ trân trọng cám ơn Bác sĩ Nguyễn Thượng Chánh. Kính chúc ông và gia đình an vui, mạnh khỏe.
Tác giả định cư tại Pháp nhưng thường lui tới với nước Mỹ, tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010. Họp mặt giải thưởng năm 2011, bà đã bay từ Paris sang California để nhận giải Vinh Danh Tác Giả -thường được gọi đùa là giải Á Hậu. Sau đây, thêm một bài mới của tác giả.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông đã nhận giải Vinh Danh VVNM 2016, đồng thời, cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng trên dưới một triệu người đọc. Bài mới của là một tự sự gợi nhớ nhiều kỷ niệm.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay.
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự VVNM từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Vừa nhận thêm giải danh dự VVNM năm 2017. Sau đây là bài mới của tác giả, vẫn với cách viết cẩn trọng, chu đáo, sống động.
Trước 1975, tác giả là một hạm trưởng hải quân VNCH, sau đó là 10 năm tù cộng sản, và định cư tại Mỹ theo diện H.O. Dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, ông đã nhận giải bán kết 2001, từ 9 năm qua đã là thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết, và vẫn tiếp tục góp bài mới.
Tác giả là một cây bút nữ, cư dân San Jose, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sang năm thứ 18 của giải thưởng, Lê Nguyễn Hằng nhận thêm giải Vinh Danh Tác Giả, với bài viết về “Ba Thế Hệ Tuổi Dậu” và bài “Từ Độ Mang Ơn”. Bài mới của tác giả kể về cuộc họp mặt của các cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh và chuyến đi 5 ngày trên du thuyền Carnival Inspiration.
Tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông là cựu sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân đội, cựu tù cải tạo. Ông cũng là tác giả sách "Hành Trình về Phương Đông" do "Xây Dựng" xuất bản năm 2010. Mới nhất, là cuốn "Within & Beyond" do tác giả viết bằng Anh ngữ và tự xuất bản. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả là cư dân Buffalo, NY. đã dự Viết Về Nước Mỹ từ hơn 10 năm trước Bài viết đầu tiên của ông là "Kinh 5 Dị Nhân" kể về vùng quê, nơi có hơn 1000 người -phân nửa dân làng- vượt biên mà có tới hơn 400 người tử vong... Hiện ông đang là cư dân Orlando, FL. và bài mới là chuyện về một số người thành công, một đề tài mà ông đã được mời nói chuyện tại Đại Học Buffalo.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. Với mỏ vàng trên sông Yuba, Marryville khởi thủy từng là thành phố của dân đào vàng. Thời nay, du khách và cư dân tại Marryville vẫn lai rai lượm được vàng cục, có du khách lượn cả cục kim cương trị giá nửa triệu mỹ kim. Đó là chuyện có thật, đề tài của tác giả trong bài viết mùa Lễ Tạ Ơn năm nay.
Nhạc sĩ Cung Tiến