Hôm nay,  

Những Người Bạn

13/11/200200:00:00(Xem: 440055)
Người viết: Phạm Hồng Ân
Bài tham dự số 34/VBST

Ông Phạm Hồng Ân, 50 tuổi, sinh năm 1950, hiện định cư tại San Diego. Công việc: Nhân viên Hãng Pacific Device.

David chở tôi lòng vòng quanh khu thương mãi người Việt. Anh cẩn thận chỉ từng quán cà phê, phở, văn phòng luật sư, bác sĩ, chợ búa...Anh dừng lại thật lâu nơi trụ sở Cảnh Sát Đông Dương, trao cho tôi tấm danh thiếp có số điện thoại, rồi nói về những tệ trạng ở đây - có thể xảy ra.
Nhờ David, tôi được biết qua về San Diego, nơi tôi sẽ sống và định cư lâu dài. Nước Mỹ đẹp thật! Hoa nở bốn mùa. Phong cảnh hữu tình, vừa thiên nhiên vừa nhân tạo. Nơi nào có người là ở đó có trường học, có nhà thương, có chợ, có tiện ích công cộng... Nước Mỹ còn cho tôi gặp những người bạn tốt bụng: như David, như Ann - những tín hữu trong Hội Thánh Mỹ - sẵn sàng dang rộng vòng tay đón mừng khách mới.
David và Ann thay phiên nhau mang đến nhà tôi: giường, ghế, tủ, thức ăn... và nhiều thứ lĩnh kĩnh.
David điển trai, có mái tóc bù xù giống một tài tử movie nào đó ở Hollywood. Ann đẹp như thiên thần, mỗi bước chân nàng đi - đều toát ra vẻ kiêu sa và quí phái biết bao!
Một hôm, tôi tự nguyện làm công tác xã hội với David. David chở tôi trên chiếc truck cà tàng, lên vùng Mira Mesa, dọn nhà cho một gia đình người Mỹ tật nguyền. Khi ngồi nghỉ trưa trong phòng khách bề bộn của chủ nhân, tôi giết thì giờ bằng cách đưa tay lật lật từng trang tạp chí. Bỗng, trang báo có đăng hình một nhà văn Mỹ nào đó đập vào mắt tôi. Nhà văn vừa ra mắt cuốn sách viết về chiến tranh Việt Nam. Bức hình xoáy sâu vào trí tôi. Cuồn cuộn mở ra một khoảng ký ức xa xăm. Trung úy Auve. Người bạn Mỹ đã từng sát vai chiến đấu với tôi cách đây mấy chục năm trước, trên vùng sông ngòi chằng chịt ở miền tây Việt Nam.
Đôi lông mày xếch. Hàm râu quai nón xồm xoàm. Nụ cười đôn hậu, thật thà. Mặc dù trải qua 30 năm, người trong ảnh đã già hẳn đi, nhưng vẫn không thể che dấu những nét quen thuộc hằn sâu trên khuôn mặt.
Tôi còn nhớ như in, lúc hành quân trên sông Ba Lai vùng Bến Tre. Giang đoàn tôi phối hợp với chiến đỉnh Mỹ truy quét địch trên sông. Trên bờ, bộ binh Sư Đoàn 7 đang hành quân tấn kích địch từ phía đông Giồng Trôm đến tây Giồng Trôm. Và ở phía tây, trên sông, tôi và trung úy Auve nhận lệnh: " Chận đường rút lui của địch, tiêu diệt tất cả các xuồng ghe từ rạch chạy ra". Giao tranh một lát, quả thật chúng tôi thấy có dăm ba xuồng nhỏ nhốn nháo chạy ra. Trung úy Auve chụp vội đại liên, bắn hối hả về phía trước. Tôi nâng ống dòm lên, nhìn mục tiêu, hoảng hốt la lên :
- Dừng lại ! Xuồng dân. Chỉ có đàn bà và con nít.
Khi tiến tới mục tiêu, chúng tôi đau lòng nhìn thấy hai cô thiếu nữ đang nằm quằn quại trên xuồng, máu loang đầy quần áo. Số đàn bà còn lại, chấp hai tay trước ngực, van lạy chúng tôi và khóc rấm rức. Trung úy Auve ngửa mặt lên trời, làm dấu Thánh Giá, rồi rống lên thảm thiết. Anh vội vàng bồng hai xác thiếu nữ sang chiếc PBR, cắm đầu cắm cổ xả hết tốc lực chạy ra sông Tiền.
Sau đó, đơn vị tôi chuyển về Mộc Hóa. Từ đấy, tôi mất liên lạc luôn với trung úy Auve.
Bây giờ, Auve đã là một nhà văn. Tiểu sử và hình ảnh đăng trên tạp chí Mỹ. Anh lại nhớ về Việt Nam, viết về chiến tranh Việt Nam. Chắc chắn, trong những trang sách của anh có viết về hai cô thiếu nữ -hai cô thiếu nữ quằn quại dưới loạt đạn oan nghiệt của Auve- trên chiến trường năm xưa.
Tôi muốn tìm lại Auve, hâm nóng lại thời trai tráng của mình. Đồng thời, muốn biết về số phận của hai cô thiếu nữ, 30 năm về trước, Auve đã chở đi biệt tăm" Tôi sẽ nhờ David. Nhờ Ann. Và với phương tiện liên lạc thông tin hiện đại nhất của Mỹ, chắc chắn Auve sẽ gặp lại tôi, trong nay mai.

Chủ nhật, ông bạn láng giềng đưa tôi đi tham dự một buổi họp cộng đồng người Việt. Buổi họp làm tôi thất vọng.
Người ta đua nhau khoe khoang thành tích, công kênh về cái quá khứ "vàng son" của mình. Họ không biết những điều đó quá già nua, bị ngọn lửa thời gian đốt trụi lâu rồi.
Tuy vậy, buổi họp đã tạo cơ hội cho tôi gặp lại người bạn. Người bạn nối khố, thân nhau từ thuở còn cởi truồng tắm mưa. Lớn lên, hai đứa cùng học chung lớp, rồi cùng đi lính chung Binh Chủng, chỉ có một điều khác nhau: 30 tháng 4 năm 1975, bạn "chuồn" trước ra nước ngoài. Tôi ở lại, cầm súng đến giờ phút cuối cùng, để rồi phải vào tù, trải qua những năm dài nằm gai nếm mật dưới chế độ Cộng Sản.


Bây giờ, ở Mỹ, bạn là chủ tịch một hội đoàn. Bạn còn tham vọng chính trị. Như ngày xưa đã từng hùng hồn, dõng dạc trong những dịp nói chuyện trước công chúng. Gặp bạn, tôi mừng quá, mừng đến rơi nước mắt. Tôi chờ bạn phát biểu xong, vội chạy lên ôm chầm lấy bạn, nghẹn ngào nói không ra lời.
Sau khi nhận ra nhau, bạn cũng mừng rỡ rối rít :
- Sao" Mới qua ư" Cho số phone đi! Chủ nhật tớ ghé thăm. Bây giờ, bận quá, tớ phải đi ngay!
Thấy bạn vội vã, tôi lật đật xé tờ giấy, tẩn mẩn ghi số điện thoại, rồi gạch đít đậm nét cho bạn dễ nhớ. Bạn bắt tay tôi trịnh trọng, từ giã bằng một câu hết sức não nề :
- Sướng nhé ! Qua sau có trợ cấp, nhiều người giúp đỡ. Tụi tớ qua trước, cực hơn chó. Thôi, chia tay. Gặp lại sau.

Chẳng bao lâu, tôi nhận được lá thư dài dằng dặc của Trung úy Auve. Đầu tiên, Auve dồn dập hỏi thăm:
"Ông bạn, khỏe chứ " Cả gia đình đều đến Mỹ chứ" Vợ con ra sao" Mấy đứa" Tại sao giờ này mới qua" Ở tù cộng sản cực lắm không" Lúc này ốm hay mập" Già hay trẻ" Đang làm việc gì" Thoải mái lắm không"..."
Giữa thư, có một đoạn - tôi chưa kịp hỏi "tội", Auve đã khai ra vanh vách:
"...Bạn còn nhớ sông Ba Lai ở Việt Nam ngày xưa" Còn nhớ hai cô thiếu nữ bị mình bắn tơi bời bằng đại liên" Lạy Chúa, sau khi gây tội, mình đã bàng hoàng, rồi tức tốc dùng PBR chở thẳng hai cô ra bệnh-viện-hạm của Mỹ đang bập bềnh ở cửa Tiểu. Tại đây, bác sĩ đã tận tình săn sóc vết thương cho hai cô. Một tuần sau, cô bị thương nhẹ ở chân ra về an toàn. Còn Thủy Tiên, tội nghiệp, vết thương nặng quá, phải cưa bỏ mất cánh tay. Lúc làm giấy giao kết để phẫu thuật, mình mới biết nàng mồ côi từ thuở nhỏ. Động lòng trắc ẩn, mình làm thủ tục mang nàng theo về Mỹ, lúc hết nhiệm vụ ở Việt Nam..."
Tôi ngạc nhiên và cảm động xiết bao! Auve đã hành động như một mạnh thường quân, như một hiệp sĩ trong truyện cổ tích Việt Nam. Tôi tiếp tục đọc bức thư. Và đoạn cuối, những dòng chữ của Auve đã làm tôi sửng sốt, chấn động tâm tư. "...Mình quyết định lấy Thủy Tiên làm vợ, sau vài năm sống chung hợp ý tâm đầu. Bạn ơi, có lẽ đầu tiên, hôn nhân khởi sự bằng tình nhân đạo. Nhưng dần dà, tình yêu đến bằng cách nào đó... mình vẫn chưa hay" Chỉ biết Thủy Tiên là một người vợ tuyệt diệu. Chúng tôi sống với nhau 30 năm qua. Bốn đứa con thân yêu, năm nay, đều thành đạt..."
Chiều nay, tôi sẽ phone cho Auve để nhận vé máy bay sớm, anh đã hứa tặng tôi một chuyến du lịch. Tôi sẽ sang bạn ngay. Sẽ nhìn lại mặt Auve. Nhìn lại khuôn mặt anh hùng trên chiến trường năm xưa, đồng thời cũng anh hùng trong đời sống tình cảm tuyệt diệu. Tôi sẽ có dịp gặp lại Thủy Tiên - cô bé lọ lem trên dòng sông cơ hàn ngày trước.

Chủ nhật này, rồi chủ nhật tới...lại qua. Rồi những chủ nhật tới nữa. Rồi vài tháng. Rồi vài năm... Người bạn nối khố chết tiệt của tôi...chẳng thấy tới. Tôi biết, nó chẳng thèm tới, và chẳng bao giờ tới. Thế mà tôi vẫn ngồi đợi, ngồi chờ, ngồi ngóng trông, thấp thỏm. Không phải tôi cần sự có mặt của nó. Tôi chỉ tức câu nói não nề của nó :"...Qua sau có trợ cấp, nhiều người giúp đỡ. Qua trước, cực hơn chó..."
Ôi, Ông bạn ơi! chắc ông bạn vẫn không bao giờ quên tháng 4 nghiệt ngã năm 1975. VC chưa đánh, các ông đã vội co giò tháo chạy. Các ông tháo chạy bỏ đất nước, bỏ cả đồng ngũ đang tử thủ chống lại kẻ thù. Sau đó, chúng tôi phải trải qua những năm dài đói khát trong ngục tù Cộng Sản. Ra tù, chúng tôi bị nhục mạ nhân phẩm, bị đày đọa làm những công việc hèn hạ nhất để kiếm sống. Nhiều người trong chúng tôi bị mất mát đủ thứ: mất nhà cửa, mất quyền làm người, mất vợ, mất con... thậm chí, mất cả tay chân, mất đến mạng sống của mình.
Bây giờ, chúng tôi qua Mỹ lúc tuổi hom hem xế chiều, với một quá khứ thống khổ, với một thân thể tàn tạ. Các ông nghĩ về chúng tôi như vậy sao"

Vài tháng sau, giữa khi tôi đang chạy đôn chạy đáo kiếm job khắp nơi, ông bạn láng giềng ung dung gõ cửa sang chơi. Ông khuyên tôi nên tìm cách giả điên để xin tiền bệnh. Ông nhấn mạnh, tuổi già hom hem ở đây khó xin job lắm! Vả lại, tội chi đi làm, ngồi không hưởng tiền trợ cấp cho sướng tấm thân!
Cám ơn ông bạn.Chắc chắn, sắp tới, tôi sẽ điên thật, không cần phải giả điên giả khùng cho thêm mệt! Tôi điên bởi thế sự. Bởi những người bạn như thế đấy... trên đất Mỹ.

PHẠM HỒNG ÂN,
San Diego, 11/06/2000

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 867,307,638
Mỗi khi hạ về, ngày của Mẹ lại đến. Bất chợt, bâng khuâng, tôi bỗng thấy ganh tỵ với những ai còn được cài bông hồng trên áo!   Sự ganh tỵ ích kỷ, nhỏ nhoi nhưng thật khó tránh khỏi. Thế rồi mọi ký ức, kỷ niệm với Mẹ, về Mẹ lại ùa về vỡ òa từng rung cảm để tôi không thể không cầm viết.   Viết không hay, nhưng phải viết vì
Con may mắn được mẹ sinh con tại Mỹ, tỉnh Alexandria bang Virginia . Mẹ dạy con nói tiếng Việt từ thuở còn thơ. Mẹ nấu cơm Việt cho con ăn. Mẹ kể lại chuyện xưa, ông bà ngoại dạy dỗ mẹ chu đáo nên ngày nay nhờ kinh nghiệm đó mẹ rèn luyện chúng con nên người tốt. Mặc dầu sanh đẻ tại Mỹ nhưng con lúc nào cũng nghĩ tới
Chiều nay trên đường từ sở về nhà, con đã chứng kiến một tai nạn giao thông khá nghiêm trọng. Ba xe cứu thương đến vây quanh làm lưu thông bị tắc nghẽn. Khi đi ngang qua hiện trường, con đã nhìn thấy các nhân viên cứu thương đang cố gắng cưa những mảnh sắt móp méo để lấy người bị thương đang kẹt trong xe
Tác giả là một nhân viên ngân hàng, cư trú và làm việc tại Seattle , tiểu bang Washington . Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà, “Con Đi Trường Học...” là thư của một bà mẹ độc thân viết cho con gái đi thực tập tại một nước châu Phi, đã được phổ biến ngày 13-1-2006 với bút hiệu Hồng Ngọc-Vương. Bài viết thứ hai
Mẹ ơi! Biết bao giờ con mới được gọi lại tiếng "Mẹ" ngọt-ngào đầy yêu-thương này! Ngày Mẹ còn sống, gọi tiếng Mẹ đã thấy ấm lòng, thấy chứa-chan tình-cảm. Bây giờ Mẹ không còn nữa, tiếng Mẹ làm con xót-xa tận cõi-lòng, chẳng bao giờ con còn có dịp ngồi bên Mẹ, nắm lấy tay Mẹ rồi nói
Những ngày đầu bà Bẩy vui vẻ đi đây đi đó. Thấy gì cũng lạ, cũng đẹp, nhưng cái cảm giác lớn nhứt bà có là thấy mình   an toàn.   Không bị hạch xách, không bị hỏi han, điều tra, điều này điều nọ, bị sợ sệt khi phải đến cơ quan công quyền mà bà đã gặp phải ngày xưa.... Trong bữa ăn tại nhà con gái, có đông đủ
Bởi vì Việt Kiều chẳng mấy ai quan tâm đến những điều ấy, có người không chịu ở nhà mà ra ở khách sạn   cho thoải mái và chẳng muốn làm phiền đến ai. Họ muốn thăm ai thì tự nhiên đến nhà, ăn uống thì đơn giản không cầu kỳ, chẳng cần cao lương mỹ vị gì hết, có rất nhiều người xà vào quán hàng trong nhà lồng
Tôi mơ mơ màng màng nheo mắt nhìn chiếc đồng hồ bên cạnh giường ngủ, và vội vàng ngồi bật lên vì đã gần 12 giờ trưa. Đầu óc tôi vẫn còn choáng váng và khó chịu lắm, nhưng nghĩ tới mảnh giấy mẹ để trên gối, tôi chạy vội ra nhà bếp không kịp đánh răng rửa mặt. Tối hôm qua, phải nói là sáng nay mới đúng
Con không dám đi cửa trước, con vòng ra cửa sau. Mùa Xuân đã trở lại, những củ   tulip con trồng trên luống mùa thu năm nào trước khi bỏ đi đã mọc lên và ra hoa, những bông hoa tulip mà cha yêu. Mọi thứ trông buồn bã và tàn tạ, chỉ có những bông hoa tulip rực rỡ. Mầu đỏ và vàng, xen lẫn với những mầu hồng nhạt
Vì nhà tôi khá xa trường, tôi luôn cố gắng căn giờ để dù có kẹt xe cũng tới trường sớm ít nhất nửa giờ. Tôi muốn tránh cho mình tình trạng phải phóng xe vội vã trong nỗi hồi hộp lo âu sợ trễ; hoặc hớt hải tới trường vừa sát giờ dạy; hoặc tệ hơn, tới sau khi chuông vào lớp đã reo! Kinh nghiệm cho tôi biết, chính trong ít phút
Nhạc sĩ Cung Tiến