Hôm nay,  

Mối Tình Đầu

05/01/200100:00:00(Xem: 411775)
(Bài tham dự số 113\VB0910)

Chiếc Boeing 707, sau khi vượt qua chặng hành trình dài 12,000 mile, đã ngạo nghễ đáp xuống phi trường Newyork an toàn. Nước Mỹ rực rỡ hiện ra trước mắt chúng tôi. Tất cả đều mới lạ, đẹp đẽ, và văn minh một cách tuyệt vời.

Trường U.S. Naval Officer Candidate nằm ở tiểu bang Rhode Island, trong thành phố Newport, thuộc khu vực vịnh Narragansett. Đó là điểm cuối cùng chúng tôi phải đến, để chịu thời gian thụ huấn, cách đây thêm 2 giờ xe nữa.

Chiếc bus quân sự màu xám tro, dềnh dàng như tòa nhà hình hộp, đang nằm sẵn chờ chúng tôi bên vệ đường. Cô tiếp viên Mỹ xinh xắn, nở nụ cười thật tươi thắm, đưa tay chào đón chúng tôi một cách nồng nàn.

66 Sinh Viên Sĩ Quan Hải Quân từ Việt Nam sang Hoa Kỳ học hải nghiệp. 66 khuôn mặt lơ tơ mơ, chưa biết mùi đời. Vừa rời ghế nhà trường, tình nguyện vào lính, bởi chiến tranh càng lúc càng dâng cao đến độ nóng sốt.

Có lẽ, lần đầu, chúng tôi đi xa. Trải qua cuộc du hành dài lê thê, nhưng rất ngoạn mục. Chúng tôi tiếp cận ánh sáng văn minh, từ: Bangkok (Thái Lan), đến Narita (Nhật), rồi Alaska, Newyork (Mỹ)... Ở đâu, người ta cũng đều lịch sự và ấm no như trong cõi thiên đàng. Nhìn lại, đất nước tôi, biết bao năm vùi mình trong đói nghèo và chiến tranh - mà xót xa, tội nghiệp biết chừng nào!

Chiếc bus lướt êm ái qua cầu Jamestown cong vút. Cây cầu tuyệt diệu bắc qua một eo biển rộng. Từ xa, nhìn lại, nó cao và nhô lên như mảnh trăng lưỡi liềm. Nó khiến tôi nhớ đến cây cầu ô thước trong truyện cổ tích, do bầy quạ khổng lồ chỉ bắc mỗi năm vào mùa mưa ngâu, cho đôi Ngưu Lang và Chức Nữ gặp gỡ.

Qua cầu, trường bắt đầu hiện ra trong ánh nắng nhàn nhạt của buổi chiều. Buổi chiều chớm thu. Thế mà trời lạnh như cắt. Cái lạnh muốn cắt sâu vào da thịt. Cắt sâu vào ruột gan nỗi khắc khoải nhớ nhà.

Chúng tôi sắp hàng dài, đứng nép vào nhau truyền hơi ấm, chờ đợi các Barman dẫn vào Hall. Mới chớm thu, có dăm đứa trong chúng tôi đã ọc máu mũi. Không biết mùa đông sắp tới. Khi tuyết bắt đầu rơi lả lả, số phận chúng tôi sẽ ra sao"

Ở Newport, có rất nhiều trường Hải Quân nổi tiếng, như: U.S. Naval War College (thành lập năm 1885), Naval Education and Training Center, Naval Undersea Warfare Center (1934)... Trường chúng tôi thuộc Naval Education and Training Center.

Phạm vi trường rất rộng, trải dài theo vịnh Narragansett. Có những khu vực huấn luyện trang bị tối tân và những Hall xây cất bề thế. Trong đó có Ney Hall, là một nhà ăn rất lớn, có thể chứa được hàng trăm thực khách.

Tôi đến Ney Hall mỗi ngày ba lần, và lần nào cũng là người khách cuối cùng rời quán. Tôi thích không khí nơi đây. Buổi chiều, trời se se lạnh, ngồi nhấm nháp ly cà phê nóng một mình, rồi tưởng đất nhớ trời... cũng thấy ấm lòng đôi chút.

Hôm nọ, như thường lệ, tôi ngồi dùng dinner với một người bạn. Đó là chiều thứ sáu, cuối tuần, thân nhân của các Sinh Viên Sĩ Quan Mỹ đến thăm rất đông. Họ dẫn nhau vào Ney Hall ăn chiều và chuyện trò rất ồn ào. Những người đến sau, khó tìm ra chiếc ghế trống để ngồi dùng bữa. Người bạn tôi vừa đứng lên, đã có cô gái Mỹ chen vào.

Cô gái rất bình thường, nhưng làm rúng động tôi ngay từ lúc đầu. Mái tóc hoàng kim tha thướt chấm vai. Và đôi mắt long lanh... xanh thẳm nghìn trùng! Tôi lặng lẽ chiêm ngưỡng. Như đã từng lặng lẽ đi theo sau các cô nữ sinh ở quê nhà. Lặng lẽ, rồi về nhà làm thơ, cà lơ phất phơ với nỗi buồn của mình. Hai mươi tuổi rồi, tôi vẫn chưa có được một người tình. Chưa được hân hạnh trao hôn. Chưa được biết mùi vị cái hôn, nó ra thế nào"

Mãi ngây ngất với tưởng tượng, không hay cô gái Mỹ vừa ăn xong, cắm cúi bước đi. Tôi ngẩn ngơ trông theo, thầm tiếc rẻ "cuộc gặp gỡ" sao quá ngắn ngủi! Bỗng, tôi bắt gặp cái túi xách của nàng đang treo tòn ten ở thành ghế. Ồ! Nàng vội vã quá, nên quên mất nó chăng" Như một phản xạ tự nhiên, tôi cầm cái túi xách dễ thương lên tay, cắm đầu chạy theo nàng.

- Ơi! Cô ấy ơi!.. Cô bỏ quên cái này...

Tôi vừa chạy, vừa thở, vừa gọi nàng, vừa cầm cái túi xách đưa lên khỏi đầu. Cô gái Mỹ nhận ra. Nàng từ tốn dừng lại, nhoẻn miệng cười, rồi rối rít :

- Cám ơn ông!...Cám ơn ông!...

Có lẽ, lòng "hào hiệp" lì lợm của tôi đã khiến nàng tội nghiệp. Nên sau khi phút ban đầu, nàng nắm tay tôi, lôi một mạch ra bãi biển:

- Tôi rất thích người Việt. Nhất là các Sĩ Quan Hải Quân như ông. Tôi cũng đang học Hải Nghiệp. Trường chúng tôi ở phía bên kia, gần Navy Exchange. Tên tôi là Kathy. Hân hạnh được biết ông...

Thế là, tôi với Kathy quen nhau, ngay từ chiều thứ sáu ấy.

Vốn liếng Anh ngữ của tôi ít ỏi, không thể nghe và hiểu được nàng nhiều. Nhưng, tình yêu, dường như có giác quan rất đặc biệt. Nó hiểu và cảm thông nhau ở cách thế khác. Vả lại, có ông thi sĩ nào đó đã nói: "Yêu nhau là từ hai hướng khác nhau, cùng nhìn về một hướng". Thế đấy! tôi và Kathy yêu nhau từ lúc nào" Chỉ có trời đất xứ Mỹ này biết!

Mỗi weekend, không cần hẹn nhau, cứ nghe tiếng còi xe của Kathy reo vang, là tôi ba chân bốn cẳng chạy ra, leo lên xe, ngồi cạnh nàng. Sau khi vào China Town dùng cơm tàu, nàng chở tôi dạo khắp Newport. Newport nằm về hướng đông-nam của Rhode Island, là một hải cảng sầm uất, ở gần mũi Narragansett. Newport có nhiều kiến trúc trứ danh như: Friends Meeting House (1699), Trinity Church (1726), Redwood Library and Athenaeum (1748-1950), Touro Synagogue ( đền Do Thái giáo-1763)... Newport còn nhiều tòa nhà hoành tráng khác: Breakers (1895), Château-Sur-Mer (1852), Elms (1901), Marble House (1892) và Rosecliff (1902). Newport còn nổi tiếng về Jazz, với những ngày lễ hội âm nhạc tưng bừng.

Loanh quanh ở Newport mãi, cũng chán. Kathy chạy dần lên Newyork, ghé thăm những kỳ quan nức tiếng của thành phố đồ sộ này. United Nations Headquarters tọa lạc nơi vùng Manhattan, nằm dọc theo dòng sông East (East River), khoảng giữa đường 42 và đường 48 trong thành phố Newyork. Đó là một tòa nhà đặc biệt, có phòng họp thiết kế tối tân dành cho đại biểu các nước trên thế giới về họp. Tòa nhà được hoàn thành vào năm 1952. Còn Empire State Building là tòa nhà chọc trời ở đại lộ 5, khoảng giữa đường 33 và 34. Khi được khánh thành năm 1931, nó là tòa nhà cao nhất thế giới. Chiều cao là 1,250 feet, gồm có 102 tầng.

Thú vị nhất, lúc chúng tôi hòa vào đám đông trên cảng Newyork, đứng đợi ferry để ra đảo Liberty thăm Statue Of Liberty. Tượng Nữ Thần, biểu tượng cho tự do, đã là một trong những cảnh tượng đầu tiên, hân hoan chào đón các di dân đến Mỹ. Tượng cao 93m (306 ft), Kathy phải nằm ngửa người xuống đất, mới chụp được ảnh toàn tượng. Chúng tôi theo đoàn người dẫn vào tượng, rồi đi dần lên cao theo các bậc thang. Tôi và Kathy hôn nhau đắm đuối, nơi ngọn đuốc của Nữ Thần Tự Do.

Ngày mãn khóa đã tới. Tôi phải rời trường, trở về nước. Kathy khóc cạn nước mắt. Tội nghiệp, nàng ôm tôi không rời, suốt mấy giờ qua. Chiếc bus chực sẵn bên ngoài, cứ bóp còi inh ỏi. Bạn bè tôi la ó vang rân, hối thúc liên hồi. Kathy mềm nhũn trong vòng tay tôi. Nàng thì thào qua hơi thở: "Tốt nghiệp, em sẽ tình nguyện sang Việt Nam, chiến đấu với anh."

Về nước, lao mình vào cuộc chiến, nổi trôi qua nhiều bến bờ xa xôi, kỷ niệm với Kathy dần đà phai nhạt. Dăm cánh thư thăm hỏi... cũng thưa dần, rồi bặt tăm. Năm năm trời ngang dọc khắp chiến trường, tôi vẫn chưa hề gặp được Kathy, như lời hứa hẹn nàng trao tôi lần cuối.

Ba mươi năm...nặng nề trôi qua..., tôi trở lại Mỹ theo diện HO, sau khi trải qua những năm tháng lao lung trong ngục tù Cộng Sản.

Thời gian đầu đến Mỹ, vài bạn cũ biết chuyện, khuyên tôi nên tìm lại Kathy, biết đâu nàng có thể giúp cơ hội trên bước đường sinh kế.

Ba mươi năm dài nghiệt ngã trôi qua. Biết bao vật đổi sao dời. Biết bao mưa sa bão táp. Chàng sinh viên hải quân năm xưa đã thành một ông HO thất trận. Thân mình đã vậy, người xưa ra sao"

Tôi tưởng tượng đến một bà Mỹ già khú đang ho sù sụ, run rẩy chải lại mái tóc xác xơ rụng trắng mái đầu. Tôi tưởng tượng đến mụ Mỹ mập mạp, da trổ đồi mồi, chậm chạp lê từng bước nặng nề trên thành phố Newport, tìm kiếm lại kỷ niệm thân yêu ngày nào.

Thôi, gặp nhau làm gì" Hãy để tôi giữ mãi hình ảnh đẹp của Kathy trong lòng. Giữ mãi mái tóc hoàng kim tha thướt chấm vai. Và đôi mắt long lanh... xanh thẳm nghìn trùng.

PHẠM HỒNG ÂN

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 867,302,298
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả là một nhà giáo, nhà báo, nhà hoạt động xã hội quen biết tại Little Saigon. Tới Mỹ theo diện Hát Ô Một từ 1990. Suốt 28 năm qua, ông không ngừng viết văn viết báo tiếng Việt, tiếng Anh. Trong năm qua, có tới 7 cuốn sách mới. Góp sức với Viết Về Nước Mỹ, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ những năm đầu, và vẫn tiếp tục thêm bài mới.
Tác giả là một dược sĩ tại Toronto. Với bài viết đầu tiên “Hai Bà Đầm,” ông đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011. Ba năm sau, 2014, ông góp thêm bài “Hồi Ký Của Một Người Tên Ông.” Năm 2016, thêm bài “Bà Mẹ Tây” hay “Thằng Tầu Con của Mẹ.” Sang năm 2018, thêm bài thứ tư, “Đứa Con Lai...Hải Tặc.” Bài viết mới thứ 5 “Chuyện Tình...Hải Tặc” là phần kết của câu chuyện. Bạn đọc Viết Về Nước Mỹ trên Việtbao Online chỉ cần double click vào tên tác giả ở đầu bài, sẽ thấy bài cũ của cùng tác giả. Bài đăng 2 kỳ. Tiếp và hết.
Tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2017. Ông hiện sống và làm contractor (hợp đồng) ngành hàng không ở Vail, Arizona cho quân đội Mỹ, và từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông, sống trong trại lính, làm việc theo một hợp đồng dân sự. Chuyện làm việc ở Trung Đông, bài đầu đã được phổ biến ngày 4 tháng 5. Sau đây là bài viết thứ hai, chuyện của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan.
Tác giả tên thật Huỳnh Thị Huệ, 69 tuổi, đến Mỹ năm 1991 theo diện HO. hiện đang là cư dân Downey, California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là chuyện đau thương có thật của gia đình, khi ntgười con trai tử nạn trên xa lộ vì bị một anh Mễ không giấy tờ say rượu lái xe.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bà sinh năm 1951 tại miền Bắc VN, di cư vào miền Nam 1954, là thư ký hành chánh sở Mỹ Defense Attaché Office (DAO) cho tới ngày 29 tháng Tư 1975. Vượt biển và định cư tại Mỹ năm 1980, làm thư ký văn phòng chính ngạch tại City of San Jose từ 1988-2006. Về hưu vào tuổi 55, hiện ở nhà chăm nom các cháu nội ngoại. Sau đây là bài viết thứ tư của bà.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, đã nhận giải bán kết 2002 với bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể về nơi cô làm việc, khi khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2001. Bài viết gần đây là ký ức Mậu Thân của cô bé thời mới lớn. Và sau đây, thêm một bài viết mới.
Từ 2005, tác giả Hoàng Đức, một nhà giáo hưu trí tại Westminster, góp bài “Dodautre tại Mỹ” và nhận giải đặc biệt Viết về Nước Mỹ. Mười ba năm sau, 2018, thêm một bài mới của Hoàng Đức 2018. Theo tiểu sử do tác giả mới tự sơ lược, tại Việt Nam, 1963-1975, ông là Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp. Sau 1975 là mười năm thất nghiệp. Công việc tại Hoa Kỳ từ 1985: High School Teacher; College Instructor, sau đó là Social Worker. Về hưu từ 2002. Mong ông tiếp tục viết và bổ túc địa chỉ liên lạc.
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà hiện có tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bài viết mới của bà là chuyện tấm hình một cô bé học trò 15 tuổi. Tấm hình từng qua tay kẻ trộm, trở thành bùa hộ mạng của một thuyền nhân, với những tình tiết éo le dài gần một đời người lưu lạc.
Tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông là cựu sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân đội, cựu tù cải tạo. Ông cũng là tác giả sách "Hành Trình về Phương Đông" do "Xây Dựng" xuất bản năm 2010. Mới nhất, là cuốn "Within & Beyond" do tác giả viết bằng Anh ngữ và tự xuất bản. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Nhạc sĩ Cung Tiến