Hôm nay,  

Hệ Thống Chắn Nhiệt

11/01/200100:00:00(Xem: 152753)
Một đôi khi nghĩ lại, tôi không khỏi buồn cưới và xấu hổ cho sự ngây ngô của mình.

Là một người bình thường trên mọi phương diện, chẳng bao giờ tôi dám nghĩ là mình sẽ đi Mỹ. Thế mà tôi đã được làm việc chung với các khoa học gia, lại còn được chụp hình chung với các phi hành gia nữa.

Rất hãnh diện, tôi đem khoe những tấm hình có chữ ký và hình tôi được chụp với các phi hành gia (chỉ với một số rất ít bạn bè quan tâm đến khoa học thôi). Có bạn bảo tôi chịu khó thu thập hình có chữ ký này làm lưu niệm mai sau. Nghe có lý, nhưng làm không dễ.

Năm 81, khi chồng tôi chuyển về làm việc ở KSC, tôi đã năn nỉ anh phải nhiều lần xin thẻ để có thể vào xem phi thuyền lên ở chỗ thật gần. Đặc biệt là những lần phóng ban đêm.

Không uổng công thức khuya chờ đợi, với khoảng cách 1 dặm, ngăn bằng giòng sông Banana, nhừng người đi xem hồi hộp chờ. Tiếng người điều khiển đếm ngược vang vang trong đêm tối: ... 3, 2, 1, lift off. Cả một cột lửa bay thẳng lên trời, chen trong những vì sao đêm lấp lánh. Ánh sáng chiếu loà đêm đen, tiếng nổ ầm vang rung chuyển mặt đất.

Sau này tôi biết thêm là còn có nước. Thật kỳ diệu. Thủy kị Hoả. Vậy mà ở đây, ngay dàn phóng, khi chiếc phi thuyền bay lên cũng là lúc hàng triệu gallons nước ào ạt tuôn ra để làm giảm chấn động cũng như làm giảm sức nóng khủng khiếp của nhiên liệu khai hỏa.

Trên mặt đất thì dùng nước chế ngự nhiệt nhưng ngoài mặt đất lại phải dùng phương pháp khác.

Hầu hết mọi người đều biết là phi thuyền phải có một hệ thống chắn nhiệt rất cao. Nhưng không mấy ai nghĩ đến chuyện nếu không có sức chắn nhiệt đặc biệt, chiếc phi thuyền sẽ trở thành một khối cầu lửa khi trở về bầu khí quyển của trái đất.

Ngoài sự thay đổi nhiệt độ quá lớn, một công dụng khác của hệ thống chắn nhiệt là ngăn chặn phóng xạ mặt trời có thể hủy hoại những máy móc cũng như tất cả những vật dụng, và sinh mạng các phi hành gia trong phi thuyền khi đang nghiên cứu ở ngoài trái đất. Như thế đủ hiểu là hệ thống chắn nhiệt quan trọng như thế nào.

Nằm trong trung tâm không gian Kennedy, TPSF (Thermal Protection System Facility) chế tạo những phần mới để thay thế những chỗ bị hư hại ngoài vỏ phi thuyền trong hành trình đi, về trái đất. Mỗi chiếc phi thuyền cần khoảng 24 ngàn miếng chắn nhiệt, 2 ngàn 3 trăm tấm chăn có sức ngăn nhiệt uyển chuyển, 5 ngàn 5 trăm tấm chăn có hệ thống kiểm soát nhiệt độ, 8 trăm miếng có khả năng ngăn chặn những làn sóng cao thế và hàng ngàn miếng dùng trong những chỗ tiếp nối nhau. Từng miếng một, phải thật vừa vặn, thích hợp với nhiệm vụ chắn nhiệt dùng cho phiá trong, hoặc phía ngoài phi thuyền.

Ở bên ngoài, vỏ phi thuyền làm bằng những miếng gạch sứ, những miếng ngăn chặn làn sóng cao thế, những miếng nối tiếp, và những tấm chăn cũng bằng gạch sứ. Những bộ phận chắn nhiệt này bao bọc toàn bộ chiếc phi thuyền để bảo vệ lớp da bằng nhôm và graphite epoxy (một hợp chất carbon fiber dưới sức ép thật cao được kết hợp bởi một loại keo có khả năng kết hợp các nguyên tử lại với nhau) để phi thuyền có thể chịu đựng được nhiệt độ cực lạnh -200 độ F (-129 độ C) khi ra ngoài không gian hay cực nóng +2900 độ F (+1593 độ C) khi trở về trái đất.

Kế đến là những tấm chăn có hệ thống kiểm soát nhiệt độ để bảo vệ những hệ thống chất lỏng, dụng cụ, máy móc của phi thuyền thoát khỏi sự hủy hoại cuả những tia phóng xạ từ mặt trời khi đang ở trong không gian.

Tùy theo từng chỗ và tùy theo nhiệm vụ, kích thước cũng như thể loại của từng miếng chăn chắn nhiệt rất khác biệt. Mỗi miếng có thể nhỏ từ 3x6 inches nhưng cũng có thể lớn đến 3x6 feet. Khi thì làm bằng loại vải thật dầy, lúc là những miếng kim loại mỏng hay bằng một loại hợp chất hóa học đặc biệt. Tất cả đều được ghi rõ trong những bản vẽ mà các kỹ sư đã sáng tạo ra.

Y hệt một bức tranh nhiều mảnh được ghép lại với nhau, các miếng chắn nhiệt cũng được ghép lại để che chở chiếc phi thuyền toàn vẹn trở về trái đất. Thay thế những cơ phận hư hỏng xong, bảo trì lại máy móc, ráp thêm những dụng cụ mới, chiếc phi thuyền lai sẵn sàng để đưa ra dàn phóng.

Những loại hỏa tiễn như Titan, Delta, Trident thường chỉ có một dàn phóng. Riêng chiếc phi thuyền có tới hai dàn phóng. Năm 1976, Enterprise, chiếc phi thuyền đầu tiên được tạo ra như một thử nghiệm kiểu mẫu. Chiếc thứ hai, phi thuyền Columbia mới là chiếc đầu tiên thực sự ra ngoài không gian năm 1979. Sau đó 11 tháng, chiếc Challenger được chế tạo để rồi bị nổ sau này. Năm 1983, phi thuyền Discovery được đưa đến KSC. Và năm 1985 chiếc Atlantis ra đời.

Phi thuyền bay trong không gian với vận tốc khoảng hơn 17 ngàn dặm một giờ. Để trở lại trái đất, vận tốc giảm chỉ còn khoảng 200 dặm một giờ. Khi trở về trái đất, phi thuyền trở đầu đuôi để cơ phận Reaction Control System hoạt động. Tiếp đó, bộ phận Orbital Maneuvering System được dùng để giảm vận tốc phi thuyền. Các hoạt động trên phi thuyền tạm ngưng khi vào quỹ đạo của điạ cầu.

Áp dụng phương pháp hàng không, phi thuyền đáp xuống phi đạo như những chiếc máy bay thông thường. Vận tốc lúc này vào khoảng hơn 200 dặm một giờ. Các phi hành gia được đưa ngay đi để dò tia phóng xạ cũng như xem lại sức khỏe trước khi ra họp báo. Chiếc phi thuyền cũng được đưa về trạm kiểm soát, tu bổ chuẩn bị cho công tác lần tới.

Trân Phương

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 863,558,852
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ XII, 2012. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biển đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA. Bài sau đây trích từ báo xuân Việt Báo Tết Quý Tỵ 2013.
Tác giả từng nhận giải vinh danh tác phẩm Viết Về Nước 2007. Một bài viết của ông từ năm nhận giải, “Bài Không Tên thứ 20” hiện đã có tới 134,588 lượt người đọc trên Viebao Online, tính tới hôm nay. Ông là một cựu SVSQ Học viện CSQG Thủ Đức, cao học Xã hội học CSUF, CA State parole officer, đệ tử bốn đẳng của Võ sư Đặng huy Đức. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả tên thật Vũ Văn Cẩm; Vượt biển năm 1981. Đến Mỹ 1982, hiện là cư dân Oklahoma từ 2003. Nghề Nghiệp: Electrical Engineer. tại Công Ty American Airlines, M&E Center, Tulsa, OK. Bài viết -trích từ Việt Báo Tết QWuý Tỵ - là một chuyện tình đẹp.
Tác giả đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2012. Cô định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. đầu thập niên 90, hiện là cư dân Berry Hill, Tennessee, làm việc trong Artist room của một công ty Mỹ. "Cha và Con" là chuyện về một "tổ ấm thời chiến" ở Hồng Hoa Thôn, Đà Lạt, nơi một cô bé lai Mỹ bị cả cha lẫn mẹ bỏ rơi, đang sống trong một buôn Thượng, trong khi người cha là một kỹ sư thành đạt, giầu có tại nước Mỹ. Bài trích từ báo xuân Việt Báo Tết Quý Tỵ 2013.
Với “Hồi Ức Tháng Tư Của Long Mỹ,” cùng viết với người cháu là Hải Quân Trung Tá Paul LongMy Choate, Trương Kim Hoàng Thư đã nhận giải Vinh Danh Viết Về Nước Mỹ 2011. Là một kỹ sư điện, cô hiện làm việc tại DPW-LACO. 
Trương Ngọc Anh (hình bên) đã nhận giải bán kết Viết Về Nước Mỹ 2002. Bài và hình ảnh được thực hiện theo lời kêu gọi của chương trình Foodbank tại Quận Cam: "Nếu biết ai đó cần sự giúp đỡ, xin vui lòng hướng dẫn vào chương trình trợ giúp của chúng tôi." Vào những ngày cuối năm, tác giả đã có dịp trở lại khu phát thực phẩm trợ cấp tại một nhà thờ, thấy rau quả tươi, thực phẩm phong phú,các thiện nguyện viên tiếp đãi ân cần.
Tác giả tên thật Linda Hoa Nguyễn, sinh năm 1950, đến Mỹ năm 1994 diện tị nạn chính trị theo chồng, hiện sống ở Bắc Cali. Thư kèm bài viết về nước Mỹ đầu tiên, bà cho biết "Tôi tốt nghiệp đại học ngành Early Childhood Education tại Chapman University California hồi tháng 5, 2012 khi tôi vừa tròn 62 tuổi.
Tác giả Lê Thị, người nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2012 chính là Calvin Trần, nhà thiết kế thời trang gốc Việt nổi tiếng trong dòng chính.
Tác giả ba mươi tuổi, sinh năm 1982 tại Việt Nam, du học Australia từ 2007. Sau khi học xong từ đầu năm 2012, hiện sống tại Flemington, Victoria. "Một chị bạn từng sống một thời gian ở Mỹ khích lệ tôi viết văn trong lúc nhàn cư vi.
Chú Sáu Steve Brown chính là "người Mỹ yêu tiếng Việt" mà tác giả Donna Nguyễn đã kể trong bài "Việt Bút, Việt Báo và Chú Sáu." Báo xuân năm Thìn, khi nhắc tới tài làm thơ Việt của ông, Khôi An viết: "Tôi gọi ông là chú Sáu thay vì Mr. Steve Brown. Chú Sáu đã từng đóng quân ở Việt Nam, nơi đó chú đã gặp thím Sáu."
Nhạc sĩ Cung Tiến