Hôm nay,  

Mùa Lễ Tạ Ơn Trên Đất Mỹ

13/03/200100:00:00(Xem: 160479)
Bài tham dự số: 168-VB1107


Chiếc ghe nhỏ chồng chành, lắc lư đang mắc cạn, không tài nào di chuyển nổi nữa. Tuy vậy, những con sóng cứ dồn dập kéo đẩy làm những mãnh ván ghép từ từ bung ra... Trong màn đêm đen tối không trăng sao, mưa rơi nặng hạt cùng với nước sóng biển tràn vào ngập cả nơi chúng tôi ngồi. Ai nấy đều rả rượi sau hai mươi ngày lênh đênh trên biển cả không người lái. Không còn gì để ăn, không còn gì ấm để mặc, để chống lại cái ướt lạnh thấu xương lúc đó. Chỉ còn nghe những tiếng kinh cầu nguyện trong giờ phút cuối...

Một người bỗng hét to lên, trong nỗi vui mừng:

"Hình như là một hòn đảo!... Một đảo hoang, chúng ta được tự do rồi!!"

Mọi người nhốn nháo đứng dậy, đè cả lên nhau. Trước mũi ghe là một khối đen ngòm toàn những cây là cây. Ai nấy lo nhảy xuống bờ. Tôi vội vàng lay đứa em trai nằm bất động trong góc ghe: "Dậy đi em, mình thoát rồi!"

Thằng bé còi cọc, đã bị sốt mấy hôm rồi vì say sóng, đói và không chịu nổi cái ướt lạnh của những cơn bão đại dương. Nó không buồn nhúc nhích. Đến khi trên ghe chỉ còn có hai chị em tôi, tôi vội kéo nó ra, cõng nó lên vai, chụp lấy cây sào do người đi trước để lại nơi mũi ghe. Tôi nhắm mắt nhảy đại xuống nước để vào bờ. Vì quá nhỏ con không đủ sức để vác nổi em tôi mà trườn được ra xa, nên cả hai cùng lọt xuống nước. Vừa kéo em tôi, tôi vừa cố lội vào bờ. Hai chị em tôi ráng bước đi, mắt giương lên trong màn đêm để tìm vết những người đi trước. Em tôi đã kiệt sức, nó té qụy, không còn đi được nữa vì chân bị những gai nhọn đâm xuyên qua thịt. Tôi phải ngồi xuống với nó, đành chịu thua," chờ đến sáng vậy, đàng nào cũng thoát rồi!", tôi nghĩ thầm.

Tự nhiên, lúc đó, tôi nghe vài tiếng "tách tách" như tiếng pháo nổ, và cả một bầu trời bổng sáng rực lên. Có tiếng ai đó thét lên: "Thôi, chết rồi, trái sáng, công an biên phòng...!". Tôi thấy những người đồng cảnh lấy tay che mắt chạy trốn vào các bụi cây gần đó. Tôi cũng hoảng hốt kéo lê em tôi vào một góc. Một tên cầm súng, bắn chỉ thiên lên trời, vừa chửi thề, vừa hét lớn: "Đứa nào nhúc nhích, tao bắn chết bỏ..."

Một vài tên khác lục soát trong các bụi cây,và lôi ra từng người, từng người một, nhếch nhác trong những bộ áo quần ướt nhem đầy bùn xình. Đoạn chúng lấy dây thừng ra cột hai cánh tay của từng người một. Chị em tôi cũng cùng chung số phận. Trời mưa cũng đã dứt. Chúng tôi bị lôi đi một đoạn, đến một căn lều tranh mà họ gọi là trạm kiểm soát và tất cả bị đẩy vào một xó, ngồi la liệt để chờ "khai cung". Tên cầm đầu dỏng dạc, chỉ vào chúng tôi mà noí:

"Nữa đêm hôm chúng bay làm mất công tụi tao quá đi. Tổ chức là đứa nào"" à... Im lặng...

"Tụi bay không khai, tao cũng có cách...(ngừng một chút)... Thôi khai sự thật đi, thì được hưởng chế độ khoan hồng của nhà nước và được thả ra sớm, được về ngay! ...(chỉ một bác lớn tuổi nhất trong đám chúng tôi) thằng này tên tuổi là gì" làm gì" ở đâu" ... (ghi vào) kế tiếp... rồi. .. (xong chỉ vào tôi) con này, tên tuổi" cha mẹ làm gì" ở đâu""

Tôi rất muốn "khai sự thật" để được thả về sớm, vì vậy tôi trả lời không ngập ngừng: "Tôi tên Trần thị Hương, 20 tuổi. Cha tôi là thiếu úy cảnh sát dặc biệt, hiện đang học tập cải tạo tại trại Z30C Hàm Tân. Mẹ tôi đi kinh tế mới Hà Giang. Tôi không có địa chỉ, vì hai chị em tôi ban ngày đi đan giỏ tre, ban đêm ngủ ở vỉa hè nhà thờ Tân Định..."

Hắn cắt ngang: "Bố láo, mặt mày mà dám nói 20 tuổi" Nhãi ranh! con của ngụy quyền! Hèn nào phản động từ trong máu. Cái thứ này là phải diệt tận gốc, kéo nó sang một bên!"

Tôi ngở ngàng. Thì ra nói thật là chết. Tôi sực nhớ hôm vào thăm cha tôi lần cuối sau khi nhận được thư với mấy dòng chữ rằng ông "đang học tập tốt, đầy đủ, vui vẽ, không có gì lo lắng cả ", tôi đã phải khóc hết nước mắt khi gặp ông lê từng bước khó khăn trong tấm thân gầy guộc xanh xao, mất cả giọng nói, lả người vì bệnh và đói. Tôi hỏi cha tôi tại sao lại ghi thư nói không có gì lo lắng cả, thì cha tôi có thều thào: ". ..Muốn được sống phải nói láo!".

Như vậy thì tôi sắp phải chết! KHÔNG, tôi không muốn chết... những hình ảnh của cha, mẹ, và các em nhỏ cứ hiện ra. . . KHÔNG, tôi phải sống!. Trong thoáng giây, tôi nghĩ thầm: Cũng cái luận điệu gọi là "chính sách khoan hồng" này đây mà đã có biết bao nhiêu "trại cải tạo" đã được mọc lên như nấm sau năm 75, để cho biết bao nhiêu cảnh gia đình tan nát lầm than. Xã hội thì đảo lộn, luân lý đạo thường không còn có nghĩa chi và ngay cả Thượng Đế cũng còn bị ra hàng thứ yếu vì lòng ngạo mạn trong triết lý duy vật "Thủy tổ con người là loài vượn cổ" và "Có sức người, sỏi đá cũng thành cơm'!! .

... Dưới ánh đèn dầu lờ mờ lúc đó, tôi nhìn lên vách lá dừa của "trạm biên phòng" có các hàng chữờ bằng giấy "Độc lập- Tự Do- Hạnh Phúc". Tôi rùng mình, một phần vì gió lạnh mùa đông thổi vào xuyên qua da thịt tôi lúc ấy chỉ có một bộ áo quần ướt dính thân, một phần vì tôi nhớ lại những cái "Đơn xin việc làm" kèm theo "Sơ yếu lý lịch" cũng có những hàng chữ này đã đưa tôi đến ngỏ cụt cuộc sống, và chỉ có những trại lao động tập trung tôi mới được may mắn chen chân vào!! Thế rồi từ ấy, tôi lần mò đi tìm "tự do" để rồi nguyên thời tuổi trẻ của tôi đã mang nhiều dấu ấn của trại giam.

Kinh hoàng quá, không lẻ tôi lại sắp bị bắt nữa hay sao" KHÔNG, tôi muốn được sống! Tức thì, tôi vụt chạy ra ngoài cửa kéo theo em tôi mặc cho mưa đang rơi trong đêm tối không trăng, không sao. Hai chị em tôi nhắm mắt chạy trong làn đạn cảnh cáo của các tên lính biên phòng. Bổng tôi vấp phải một rễ cây và té ngã sấp xuống đất. Họng súng lạnh toát kê ngay thái dương của tôi, và chỉ còn kịp nghe một tiếng "Tách", tôi hét lên trong nổi đau đớn khẩn khoản: "KHÔNG, xin cho tôi được sống! Không! tôi muốn sống! Không!"

Tôi cứ hét lên như vậy cho đến khi Mẹ tôi đến lay lay người tôi:

"Tỉnh dậy đi con! Làm gì mà la hét dữ vậy"

Không! Không. .. Tim tôi đập thật mạnh trong lồng ngực, nước mắt tôi trào ra, tôi cố mở mắt để xem mình đang ở đâu" Thì ra đây là một cơn ác mộng mà thỉnh thoảng tôi vẫn thường gặp.

Quá khứ đầy vết thương đã qua rồi, nhưng hình ảnh vẫn không thể nào lu mờ nổi trong tiềm thức con người!

Hôm nay là thứ bảy cuối tuần. Tôi được nghỉ ở nhà và sắp lên khu Little Saigon để mua ít đồ dùng. Cali đang bước vào mùa thu. Năm nay mưa đến sớm quá. Tiếng mưa rơi rả rích tên mái nhà làm tôi chạnh nhớ về Da Lat vào mùa tựu trường khi tôi còn bé. Quê hương, nơi mà tôi đã được sinh ra và lớn lên. Quê hương lúc nào cũng gợi nhớ, dù có nghèo nàn đau thương đến đâu, quê hương cũng thật đẹp trong tôi. Thời gian mới đó đã cướp đi nửa quảng đời người. .. Tôi chậm rãi đứng dậy, ra mở cửa để hít thở cái bầu không khí trong sạch, tự do và bình an, và cũng để biết chắc chắn rằng tôi đang sống tại nước Hoa Kỳ, một xứ sở của cơ hội: cơ hội được sống, được làm, được học, được giúp đở người dân mình đang còn nghèo khổ từ tinh thần đến vật chất, được tự do tín ngưởng. Thế thôi, tôi còn sung sướng hơn nhiều người lắm, tôi đâu còn mong ước gì hơn nữa, tâm hồn tôi nhẹ nhàng thật đơn giản...

Nhanh quá, mùa lễ Tạ Ơn lại sắp đến rồi. Ở nước Mỹ có nhiều lễ rất có ý nghĩa, nhưng tôi thích nhất là lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), vì đối với tôi, ngày nào cũng là ngày Tạ Ơn từ khi tôi được đặt chân đến nước Hoa Kỳ này:

- Tạ Ơn Thượng Đế đã ban cho loài người một vùng đất lành để cho các dân tộc bị áp bức có nơi dung thân: Lịch sử cho biết những người Mỹ đầu tiên đặt chân lên phần đất tốt đẹp này cũng là những người tỵ nạn như chúng ta. Họ phải lìa quê hương vì những cuộc bách hại tôn giáo. Chuyến đi của họ cũng rất nhiều gian khổ và cũng đã có biết bao nhiêu người đã bỏ mạng trên đường đi tìm sự tự do.

- Tạ ơn người Mỹ, người anh em đầu tiên đến vùng đất lành này, đầy lòng nhân đạo, sẵn sàng dang tay đón nhận những đàn em bị áp bức trên khắp năm châu, không phân biệt chủng tộc, màu da.

- Tạ ơn Cha mẹ đã sinh thành ra tôi, dạy dỗ, cho tôi ăn học để tôi có được chút vốn liếng tìm kế sinh nhai.

- Tạ ơn những người đã giúp đở tôi trong những ngày đầu tiên chập chửng bước vào thế giới tự do, nơi mà tôi không còn thấy những cảnh uy hiếp, những cuộc rình rập bắt bớ dã man và vô tội vạ không còn một chút nhân tính...

Đang lái xe miên man với bao ý nghĩ, tôi đã đến khu Little Saigon hồi nào không hay. Xa xa, đằng kia hiện ra lá cờ vàng với ba sọc đỏ đang bay phất phới cạnh quốc kỳ Mỹ: Lá cờ của người Việt Nam da vàng lưu vong! Tôi cảm thấy ngậm ngùi. Ôi, cho đến bao giờ, đến bao giờ lá cờ này mới được tung tăng trên nền trời nhỏ bé hình chữ S kia" Để người dân ta không còn "nồi da sáo thịt", để nước ta có nhân quyền, có tự do thực sự, tinh thần không còn bị áp bức nữa, để nhà tù nhường chỗ cho trường học nuôi nấng các mầm non tương lai để gây dựng lại "Con Rồng Đông Nam Á""

Thiên Hương
Tustin, ngày 1-11-2000

Ý kiến bạn đọc
20/08/201513:31:33
Khách
Muốn khóc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 863,886,169
Tác giả là một Linh mục dòng truyền giáo Ngôi Lời thuộc tỉnh dòng Chicago, đang ở Alice Springs, Northern Territory, lo cho thổ dân vùng sa mạc đất đỏ Úc Châu. Với nhiều bài viết giá trị, ông là tác giả đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ năm thứ mười, 2010. Bài viết mới nhất của nhà văn linh mục là một truyện ngắn, được tác giả giới thiệu như sau:
Tác giả là một huynh trưởng hướng đạo, đồng thời cũng là một nhà giáo, hiệu trưởng trường trung học St Ignatius College Prep tại Fort Worth, Texas. Nguyễn Đức Thắng là tác giả đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2011, với loạt bài đặc biệt kể về "Người Vợ Bắc Kỳ" -hiện đã có trên 60,000 lượt người đọc. Bài viết mới của ông là chuyện về một đêm Halloween, và “mặc cảm phạm tội” của chàng với bà vợ bắc kỳ mà tác giả gọi đúng kiểu bắc kỳ xưa là “nhà tôi”.
Với kiểu “viết như nói”, tác giả đã góp nhiều bài viết và nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2005. Cô tên thật là Trần Thị Ngọc Trâm, sinh năm 1965 tại Saigon, thứ nữ một gia đình H.O. Công việc đang làm: nhân viên xã hội tại Salem Oregon. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả định cư tại Mỹ năm 2000, hiện là cư dân Boston và làm việc trong một bệnh viện của tập đoàn Partners. Với bài “Đoá Hồng Bạch” tưởng niệm một nữ sĩ quan Mỹ gốc Việt hy sinh tại chiến trường Trung Đông, Nhất Chi Mai nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2012 và đã từ miền Đông bay về Little Saigon dự họp mặt năm thứ 12 của giải thưởng Việt Báo. Bài viết mới nhất của cô kể về trận siêu bão Sandy vừa tàn phá miền Đông, nhìn từ Boston.
Tác giả đang sống tại Saigon, thường viết chuyện về Việt kiều và quê nhà, đã nhận giải thưởng đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2005. Năm 2007, bài "Gả Con Cho Mỹ" của ông vào danh sách 10 bài được đọc nhiều nhất trên Việt Báo Online. Bài viết mới của ông là một du ký kể chuyện đưa bà con Việt kiều đi từ Nam ra Bắc.
LTS. Năm (5) ngày trước khi bầu Tổng Thống Mỹ 2008, Việt Báo Daily News số đề ngày Thứ Sáu 31-11-2008, có đăng bài của tác giả Quân Nguyễn, "Xem Số Obama."
Tác giả là một kỹ sư điện toán cho một công ty tại Arizona. Là con một gia đình H.O., từng trải qua nhiều năm khốn khó khi miền Nam đổi đời, Nguyễn Khánh Vũ đã góp nhiều bài viết xúc động khi tham gia Viết Về Nước Mỹ từ năm 2004. Bài mới của ông là chuyện bầu cử, nhân ngày tổng tuyển cử 6-11 sắp tới.
Với cách viết tinh tế, sô1ng động, Nguyễn Văn đã nhân giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ 2012, cho biết ông sinh năm 1965, quê ở Phú Yên; Vượt biên năm 1988, hiện sống cùng gia đình tại Chicago. Cho tới nay, ông đã góp các bài: “Chuyện Của Bill”; “Tôi Không Là Ai Cả”; “Ngày Tháng Buồn Hiu”; “Mùa Thu Nashville”; “Đêm Mưa Bong Bóng”. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả sống ở Canada trước khi qua Mỹ vào năm 2005, hiện là cư dân Riverside và làm việc trong ngành ngân hàng. Bài viết đầu tiên của cô mang tựa đề “Chuyện Thằng Bin Con Bush” đã được trao Giải Đặc Biệt VVNM 2009. Tựa đề bài viết thứ hai của cô trích từ một tiểu thuyết của nhà văn Nodar Dumbatze, có dẫn giải trong bài.
Mr. Bond là bút hiệu của David Huỳnh, cư dân Los Angeles, từng nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2012 với loạt bài kể chuyện câu cá đủ loại, câu từ Nam đến Bắc Cali, qua Alaska, sang Mễ, câu về tới VN hay qua tận Thái lan... rồi chuyện đi lặn bắt bào ngư, bắt tôm hùm, và đi săn “hàng khủng” cá Tầm (Sturgeon) trên Delta Bắc Cali. Sau đây là bài viết thứ tư của ông.
Nhạc sĩ Cung Tiến