Hôm nay,  

Mùa Lễ Tạ Ơn Trên Đất Mỹ

13/03/200100:00:00(Xem: 160491)
Bài tham dự số: 168-VB1107


Chiếc ghe nhỏ chồng chành, lắc lư đang mắc cạn, không tài nào di chuyển nổi nữa. Tuy vậy, những con sóng cứ dồn dập kéo đẩy làm những mãnh ván ghép từ từ bung ra... Trong màn đêm đen tối không trăng sao, mưa rơi nặng hạt cùng với nước sóng biển tràn vào ngập cả nơi chúng tôi ngồi. Ai nấy đều rả rượi sau hai mươi ngày lênh đênh trên biển cả không người lái. Không còn gì để ăn, không còn gì ấm để mặc, để chống lại cái ướt lạnh thấu xương lúc đó. Chỉ còn nghe những tiếng kinh cầu nguyện trong giờ phút cuối...

Một người bỗng hét to lên, trong nỗi vui mừng:

"Hình như là một hòn đảo!... Một đảo hoang, chúng ta được tự do rồi!!"

Mọi người nhốn nháo đứng dậy, đè cả lên nhau. Trước mũi ghe là một khối đen ngòm toàn những cây là cây. Ai nấy lo nhảy xuống bờ. Tôi vội vàng lay đứa em trai nằm bất động trong góc ghe: "Dậy đi em, mình thoát rồi!"

Thằng bé còi cọc, đã bị sốt mấy hôm rồi vì say sóng, đói và không chịu nổi cái ướt lạnh của những cơn bão đại dương. Nó không buồn nhúc nhích. Đến khi trên ghe chỉ còn có hai chị em tôi, tôi vội kéo nó ra, cõng nó lên vai, chụp lấy cây sào do người đi trước để lại nơi mũi ghe. Tôi nhắm mắt nhảy đại xuống nước để vào bờ. Vì quá nhỏ con không đủ sức để vác nổi em tôi mà trườn được ra xa, nên cả hai cùng lọt xuống nước. Vừa kéo em tôi, tôi vừa cố lội vào bờ. Hai chị em tôi ráng bước đi, mắt giương lên trong màn đêm để tìm vết những người đi trước. Em tôi đã kiệt sức, nó té qụy, không còn đi được nữa vì chân bị những gai nhọn đâm xuyên qua thịt. Tôi phải ngồi xuống với nó, đành chịu thua," chờ đến sáng vậy, đàng nào cũng thoát rồi!", tôi nghĩ thầm.

Tự nhiên, lúc đó, tôi nghe vài tiếng "tách tách" như tiếng pháo nổ, và cả một bầu trời bổng sáng rực lên. Có tiếng ai đó thét lên: "Thôi, chết rồi, trái sáng, công an biên phòng...!". Tôi thấy những người đồng cảnh lấy tay che mắt chạy trốn vào các bụi cây gần đó. Tôi cũng hoảng hốt kéo lê em tôi vào một góc. Một tên cầm súng, bắn chỉ thiên lên trời, vừa chửi thề, vừa hét lớn: "Đứa nào nhúc nhích, tao bắn chết bỏ..."

Một vài tên khác lục soát trong các bụi cây,và lôi ra từng người, từng người một, nhếch nhác trong những bộ áo quần ướt nhem đầy bùn xình. Đoạn chúng lấy dây thừng ra cột hai cánh tay của từng người một. Chị em tôi cũng cùng chung số phận. Trời mưa cũng đã dứt. Chúng tôi bị lôi đi một đoạn, đến một căn lều tranh mà họ gọi là trạm kiểm soát và tất cả bị đẩy vào một xó, ngồi la liệt để chờ "khai cung". Tên cầm đầu dỏng dạc, chỉ vào chúng tôi mà noí:

"Nữa đêm hôm chúng bay làm mất công tụi tao quá đi. Tổ chức là đứa nào"" à... Im lặng...

"Tụi bay không khai, tao cũng có cách...(ngừng một chút)... Thôi khai sự thật đi, thì được hưởng chế độ khoan hồng của nhà nước và được thả ra sớm, được về ngay! ...(chỉ một bác lớn tuổi nhất trong đám chúng tôi) thằng này tên tuổi là gì" làm gì" ở đâu" ... (ghi vào) kế tiếp... rồi. .. (xong chỉ vào tôi) con này, tên tuổi" cha mẹ làm gì" ở đâu""

Tôi rất muốn "khai sự thật" để được thả về sớm, vì vậy tôi trả lời không ngập ngừng: "Tôi tên Trần thị Hương, 20 tuổi. Cha tôi là thiếu úy cảnh sát dặc biệt, hiện đang học tập cải tạo tại trại Z30C Hàm Tân. Mẹ tôi đi kinh tế mới Hà Giang. Tôi không có địa chỉ, vì hai chị em tôi ban ngày đi đan giỏ tre, ban đêm ngủ ở vỉa hè nhà thờ Tân Định..."

Hắn cắt ngang: "Bố láo, mặt mày mà dám nói 20 tuổi" Nhãi ranh! con của ngụy quyền! Hèn nào phản động từ trong máu. Cái thứ này là phải diệt tận gốc, kéo nó sang một bên!"

Tôi ngở ngàng. Thì ra nói thật là chết. Tôi sực nhớ hôm vào thăm cha tôi lần cuối sau khi nhận được thư với mấy dòng chữ rằng ông "đang học tập tốt, đầy đủ, vui vẽ, không có gì lo lắng cả ", tôi đã phải khóc hết nước mắt khi gặp ông lê từng bước khó khăn trong tấm thân gầy guộc xanh xao, mất cả giọng nói, lả người vì bệnh và đói. Tôi hỏi cha tôi tại sao lại ghi thư nói không có gì lo lắng cả, thì cha tôi có thều thào: ". ..Muốn được sống phải nói láo!".

Như vậy thì tôi sắp phải chết! KHÔNG, tôi không muốn chết... những hình ảnh của cha, mẹ, và các em nhỏ cứ hiện ra. . . KHÔNG, tôi phải sống!. Trong thoáng giây, tôi nghĩ thầm: Cũng cái luận điệu gọi là "chính sách khoan hồng" này đây mà đã có biết bao nhiêu "trại cải tạo" đã được mọc lên như nấm sau năm 75, để cho biết bao nhiêu cảnh gia đình tan nát lầm than. Xã hội thì đảo lộn, luân lý đạo thường không còn có nghĩa chi và ngay cả Thượng Đế cũng còn bị ra hàng thứ yếu vì lòng ngạo mạn trong triết lý duy vật "Thủy tổ con người là loài vượn cổ" và "Có sức người, sỏi đá cũng thành cơm'!! .

... Dưới ánh đèn dầu lờ mờ lúc đó, tôi nhìn lên vách lá dừa của "trạm biên phòng" có các hàng chữờ bằng giấy "Độc lập- Tự Do- Hạnh Phúc". Tôi rùng mình, một phần vì gió lạnh mùa đông thổi vào xuyên qua da thịt tôi lúc ấy chỉ có một bộ áo quần ướt dính thân, một phần vì tôi nhớ lại những cái "Đơn xin việc làm" kèm theo "Sơ yếu lý lịch" cũng có những hàng chữ này đã đưa tôi đến ngỏ cụt cuộc sống, và chỉ có những trại lao động tập trung tôi mới được may mắn chen chân vào!! Thế rồi từ ấy, tôi lần mò đi tìm "tự do" để rồi nguyên thời tuổi trẻ của tôi đã mang nhiều dấu ấn của trại giam.

Kinh hoàng quá, không lẻ tôi lại sắp bị bắt nữa hay sao" KHÔNG, tôi muốn được sống! Tức thì, tôi vụt chạy ra ngoài cửa kéo theo em tôi mặc cho mưa đang rơi trong đêm tối không trăng, không sao. Hai chị em tôi nhắm mắt chạy trong làn đạn cảnh cáo của các tên lính biên phòng. Bổng tôi vấp phải một rễ cây và té ngã sấp xuống đất. Họng súng lạnh toát kê ngay thái dương của tôi, và chỉ còn kịp nghe một tiếng "Tách", tôi hét lên trong nổi đau đớn khẩn khoản: "KHÔNG, xin cho tôi được sống! Không! tôi muốn sống! Không!"

Tôi cứ hét lên như vậy cho đến khi Mẹ tôi đến lay lay người tôi:

"Tỉnh dậy đi con! Làm gì mà la hét dữ vậy"

Không! Không. .. Tim tôi đập thật mạnh trong lồng ngực, nước mắt tôi trào ra, tôi cố mở mắt để xem mình đang ở đâu" Thì ra đây là một cơn ác mộng mà thỉnh thoảng tôi vẫn thường gặp.

Quá khứ đầy vết thương đã qua rồi, nhưng hình ảnh vẫn không thể nào lu mờ nổi trong tiềm thức con người!

Hôm nay là thứ bảy cuối tuần. Tôi được nghỉ ở nhà và sắp lên khu Little Saigon để mua ít đồ dùng. Cali đang bước vào mùa thu. Năm nay mưa đến sớm quá. Tiếng mưa rơi rả rích tên mái nhà làm tôi chạnh nhớ về Da Lat vào mùa tựu trường khi tôi còn bé. Quê hương, nơi mà tôi đã được sinh ra và lớn lên. Quê hương lúc nào cũng gợi nhớ, dù có nghèo nàn đau thương đến đâu, quê hương cũng thật đẹp trong tôi. Thời gian mới đó đã cướp đi nửa quảng đời người. .. Tôi chậm rãi đứng dậy, ra mở cửa để hít thở cái bầu không khí trong sạch, tự do và bình an, và cũng để biết chắc chắn rằng tôi đang sống tại nước Hoa Kỳ, một xứ sở của cơ hội: cơ hội được sống, được làm, được học, được giúp đở người dân mình đang còn nghèo khổ từ tinh thần đến vật chất, được tự do tín ngưởng. Thế thôi, tôi còn sung sướng hơn nhiều người lắm, tôi đâu còn mong ước gì hơn nữa, tâm hồn tôi nhẹ nhàng thật đơn giản...

Nhanh quá, mùa lễ Tạ Ơn lại sắp đến rồi. Ở nước Mỹ có nhiều lễ rất có ý nghĩa, nhưng tôi thích nhất là lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), vì đối với tôi, ngày nào cũng là ngày Tạ Ơn từ khi tôi được đặt chân đến nước Hoa Kỳ này:

- Tạ Ơn Thượng Đế đã ban cho loài người một vùng đất lành để cho các dân tộc bị áp bức có nơi dung thân: Lịch sử cho biết những người Mỹ đầu tiên đặt chân lên phần đất tốt đẹp này cũng là những người tỵ nạn như chúng ta. Họ phải lìa quê hương vì những cuộc bách hại tôn giáo. Chuyến đi của họ cũng rất nhiều gian khổ và cũng đã có biết bao nhiêu người đã bỏ mạng trên đường đi tìm sự tự do.

- Tạ ơn người Mỹ, người anh em đầu tiên đến vùng đất lành này, đầy lòng nhân đạo, sẵn sàng dang tay đón nhận những đàn em bị áp bức trên khắp năm châu, không phân biệt chủng tộc, màu da.

- Tạ ơn Cha mẹ đã sinh thành ra tôi, dạy dỗ, cho tôi ăn học để tôi có được chút vốn liếng tìm kế sinh nhai.

- Tạ ơn những người đã giúp đở tôi trong những ngày đầu tiên chập chửng bước vào thế giới tự do, nơi mà tôi không còn thấy những cảnh uy hiếp, những cuộc rình rập bắt bớ dã man và vô tội vạ không còn một chút nhân tính...

Đang lái xe miên man với bao ý nghĩ, tôi đã đến khu Little Saigon hồi nào không hay. Xa xa, đằng kia hiện ra lá cờ vàng với ba sọc đỏ đang bay phất phới cạnh quốc kỳ Mỹ: Lá cờ của người Việt Nam da vàng lưu vong! Tôi cảm thấy ngậm ngùi. Ôi, cho đến bao giờ, đến bao giờ lá cờ này mới được tung tăng trên nền trời nhỏ bé hình chữ S kia" Để người dân ta không còn "nồi da sáo thịt", để nước ta có nhân quyền, có tự do thực sự, tinh thần không còn bị áp bức nữa, để nhà tù nhường chỗ cho trường học nuôi nấng các mầm non tương lai để gây dựng lại "Con Rồng Đông Nam Á""

Thiên Hương
Tustin, ngày 1-11-2000

Ý kiến bạn đọc
20/08/201513:31:33
Khách
Muốn khóc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 863,965,510
Tác giả đã nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ 2012. Nguyễn Văn cho biết ông sinh năm 1965, quê ở Phú Yên; Vượt biên năm 1988, hiện sống cùng gia đình tại Chicago. Cho tới nay, ông đã góp 4 bài: “Chuyện Của Bill”; “Tôi Không Là Ai Cả”; “Ngày Tháng Buồn Hiu”; “Mùa Thu Nashville.” Cả ba bài đều cho thấy cách viết tinh tế và sống động. Sau đây là bài viết thứ năm.
Sinh năm 1983, Kim Trần là tác giả trẻ tuổi nhất trong 12 tác giả vào chung kết Viết Về Nước Mỹ 2005 với bài viết ngắn nhất, 727 chữ, "Những bài học đầu tiên về nước Mỹ". Năm 2008, cô nhận thêm giải vinh danh tác giả với bài viết về ma tuý,v "Người Yêu Tôi: Một Con Nghiện." Sau khi tốt nghiệp ngành sư phạm tại đại học Cal State, Kim Trần đã tự sáng lập "School First Learning Center" và hiện có 2 trường dạy kèm rất thành công tại Garden Grove và Westminster. Sau đây là bài cô mới viết.
Đây là bài đầu tiên của một tác giả người Mỹ trực tiếp viết văn bằng Việt ngữ. Email kèm bài viết được ông xưng danh là “Steve Brown tức là Sáu.” Ông chính là “người Mỹ yêu tiếng Việt” mà tác giả Donna Nguyễn đã kể trong bài “Việt Bút, Việt Báo và Chú Sáu.” Mới đây, khi nhắc tới tài làm thơ Việt của ông,
Tác giả là một nhà giáo hưu trí, từng là Chủ tịch Hội Ái Hữu Ninh Thuận, hiện là cư dân Riverside, Nam Cali. Ông đã góp nhiều bài viết đặc biệt cho giải thưởng Việt Báo từ năm đầu tiên, và nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2009. Bài viết mới của ông có tựa đề “Fasting: Vô Chiêu Thắng Hữu Chiêu” gồm nhiều chi tiết đặc biệt sống động về việc điều trị bệnh động kinh. Sau đây là phần đầu.
Tác giả, một kỹ sư điện tử tại công ty Intel, Bắc California, đã 2 lần nhận giải Viết Về Nước Mỹ. Năm 2009, giải danh dự, với bài "Tình Nghĩa, Nghĩa Tình" và Giải Vinh Danh Tác Phẩm 2010 -thường được gọi đùa là giải á hậu- với bài “Việc Làm Ơi, Mi Đi Đâu? Bài viết sau đây đã đăng trong báo xuân Việt Báo Tết Nhâm Thìn, 2012, nhưng chưa có trên online nên xin bổ túc.
Bài viết là chuyện về bé Ti, qua Mỹ 4 năm trước, khi mới 7 tuổi. Vì một tai nạn xe hơi, “Ti bây giờ không còn gì nữa, má đã chết, chân trái Ti bị cụt, tay trái bầm dập.” Có thể tác giả cũng chính là nhân vật trong truyện kể, một bé gái còn ở tuổi thiếu niên. Chúc bé an lành và mong Nhật Mai liên lạc lại với Việt Báo.
Tác giả là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục naêm 2000, từng là nhà giáo trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA. Sau đây là bài mới nhất của ông.
Tác giả là cư dân Austin, Texas; Công việc: y tá trưởng trong một bệnh viện thành phố, đã góp nhiều bài viết sống động và nhận giải vinh danh tác giả Viết về nước Mỹ 2006. Bài mới của cô là một truyện gia đình Việt Mỹ và tình yêu đồng tính.
Tác giả dự viết về nước Mỹ từ năm đầu, từng nhận giải tác phẩm xuất sắc 2002, giải Việt Bút 2010 và hiện là thành viên ban giám khảo chung kết. Tác phẩm đã xuất bản: Chuyện Miền Thôn Dã. Sau đây là hai bài viết mới của ông. Tuy tựa đề kêu buồn nhưng không buồn chút nào.
Trước 30/4/1975, Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh từng viết nhiều truyện ngắn trên bán nguyệt san Tuổi Hoa, và các truyện dài xuất bản bởi Tủ Sách Tuổi Hoa - hiện có trên trang mạng: http://tuoihoa.hatnang.com/ và http://www.camlinguyenthimythanh.com Sau ngày 30/4/1975, Cam Li không viết nữa, chỉ chuyên làm công việc nghiên cứu khoa học.
Nhạc sĩ Cung Tiến