Hôm nay,  

Từ Seneca, Vùng Quê Hẻo Lánh...

26/11/200200:00:00(Xem: 214606)
Người viết: Hồ Thị Triều-Lam

Bài tham dự số 77\VBST

Tác giả quê quán Mỹ Tho, tới Mỹ năm 1975, hiện cư ngụ tại Downey, California.
Nghề ngiệp: Computer Operator.


Cùng như những người Việt Nam bỏ nước ra đi ngày 30-4-75, chúng tôi, đôi vợ chồng trẻ, được tạm cư ở Subic Bay, Phi Luật Tân, sang đảo Guam và cuối cùng là trại tị nạn Fort Chaffee, Arkansas.

Sau khi đắn đo suy nghĩ cẩn thận, chúng tôi quyết định về Seneca, một làng nhỏ khoảng 1,000 dân, thuộc tiểu bang Kansas. Người bảo trợ chúng tôi là vị Bác Sĩ của làng nhưng những người đại diện trong làng mới thật sự là người lo cho chúng tôi mọi phương diện gồm: chủ nhà bank, ông Darrel và bà Jeanette Franklin; chủ chợ, ông Duane và bà Lois Crosier và chủ bảo hiểm, ông John và bà Neva Cardwell.

Ngày rời trại tị nạn lên máy bay về Seneca, Kansas, tôi đã chọn chiếc áo dài màu vàng đẹp nhất để lên đường nhưng tôi quên rằng tôi đang ở xứ Mỹ. Chiếc áo dài tôi đang mặc không thích hợp đi đường xa và về làng quê hẻo lánh, nơi mà dân bản xứ chưa bao giờ có dịp tiêp xúc với người ngoại quốc.

Khi cửa phi cơ mở ra, trước mắt tôi là ba cặp vợ chồng Mỹ cao lớn, tuổi trung niên, vồn vã chào hỏi chúng tôi và mời chúng tôi ra xe để tiếp tục chạy thêm đoạn đường 135 miles nữa mới về đến làng Seneca.

Trên đường đi, đâu đâu cũng là những nông trại trồng lúa mì phì nhiêu thẳng tắp làm tôi bồi hồi nhớ đến Ba Má, anh chị em và quê ngoại tôi, Phú Túc, Kiến Hòa với những cánh đồng ruộng lúa vàng tươi thơm ngát.

Về đến Seneca thì trời đã tối, thành phố thật vắng lặng như đã ngủ yên. Lúc đó là mùa hè nên khí hậu về đêm rất mát làm tôi cảm thấy thoải mái dễ chịu, tinh thần bớt căng thẳng vì lo lắng khi nghĩ đến dân chúng trong làng mà chúng tôi sắp sửa đối diện.

Ông bà John Carwell chở chúng tôi về nhà ông bà trong khi chờ những vị bảo trợ sắp xếp chỗ ở mới cho chúng tôi. Đó là ngôi nhà rất khang trang, đầy đủ tiện nghi với máy lạnh chạy suốt ngày đêm và thảm lót màu xanh nhạt đi rất êm chân. (Sau nầy tôi mới biết hầu hết nhà Mỹ nào cũng đều có máy lạnh và lót thảm.)

Hai ông bà có một người con gái và hai người con trai. Con gái ông bà khoảng tuổi tôi, đã có gia đình và ở riêng. Hai ông bà rất tốt, xem chúng tôi như con và thường thăm hỏi chúng tôi, nhưng vì Anh Văn là sinh ngữ hai, tôi chỉ nghe, hiểu tiếng Mỹ một ít mà không thể nói được nhiều nên tôi thường tránh né không dám đàm thoại với những người bảo trợ.

Sau đó ông Darrel tặng tôi quyễn tự điển Anh-Việt màu cam chữ to rất đơn giản, có lẽ ông đã mua nó trong tiệm sách Mỹ, dành riêng cho sinh viên du học ngày xưa và ông tặng chồng tôi tờ báo của làng, trong đó ông viết về việc làng bảo trợ chúng tôi và đón mừng chúng tôi đã chọn Seneca làm quê hương thứ hai.

Tuần lễ sau đó chúng tôi dọn ra một căn gác nhỏ, trên lầu hai ông bà chủ tiệm chụp hình không con, ông Bob và bà Alma. Bà Neva và bà Jeanette đại diện làng chở chúng tôi xuống phố mua sắm quần áo và dụng cụ nhà bếp. Thật là ngạc nhiên vì con phố nầy cách nhà tôi vài block đường và nơi đây chỉ có một con đường Main duy nhất là phố chính.

Tôi sanh ra và lớn lên trong một làng nhỏ, dân cư đông đúc, trong nhà không có đèn điện phải đốt bằng đèn dầu, nhưng nơi đây, quê hương mới của tôi, dân chúng sống rải rác không thấy bóng người ngược lại có rất đầy đủ tiện nghi.

Tôi tò mò nhìn quanh và nhận thấy sau những cửa kính của tiệm có những cặp mắt lén quan sát chúng tôi, vì có lẽ chúng tôi là hai người Á Đông trẻ tuổi, nhỏ con, mắt đen, tóc đen duy nhất mà lần lầu tiên trong cuộc đời họ nhìn thấy.

Có thể là làng nhỏ hình như ai cũng quen biết nhau nên tôi thấy hai bà Neva và Jeanette luôn chào hỏi những người chung quanh. Bà Neva dẫn chúng tôi vào tiệm bán quần áo. Tôi chọn những bộ đồ thích hợp nhưng đều rất rộng, chồng tôi cũng vậy, chúng tôi đành mua những bộ đồ size trẻ con.

Thấy tôi có vẻ thất vọng, bà Neva mua tặng tôi chiếc bàn máy may để tôi có thể sửa lại một số quần áo khác do họ quyên góp.

Mỗi ngày chồng tôi đi bộ từ nhà đến bệnh viện, cách nơi tôi ở một con đường, để học hỏi và làm việc với ông Bác Sĩ. Còn lại tôi ở nhà một mình cũng không yên vì các bà Neva, Jeanette, Lois thay phiên nhau chở tôi đi thăm những người bạn khác của họ.

Bà Neva thường chở tôi đến tiệm Donuts uống cà phê với các bà khác, thật khổ cho tôi khi được các bà phát cho cái bánh donut thật ngọt và ly cà phê đen có vị chua mà tôi cố gắng nuốt trong khi tôi tưởng tượng đến tô hủ tiếu Phánh Ký Mỹ Tho thơm ngon nơi quê nhà.

Có khi bà Neva dẫn tôi thăm nông trại nuôi bò với những con bò to lớn mập mạp. Bà đã chỉ tôi cách họ lấy sữa tươi từ bò mẹ đến cách bỏ sữa tươi vào chai để giao từng nhà mà chúng ta thường thấy trong phim. Chung quanh nông trại là những cánh đồng trồng bắp lại đúng mùa nên bà Neva đã hái những trái bắp tươi đem luộc và chỉ tôi thoa butter lên bắp để ăn. Bà ngạc nhiên khi thấy tôi lấy những trái bắp đem nướng xong thoa mỡ hành lên và ăn một cách ngon lành, tôi không tưởng tượng tôi đang thưởng thức bắp nướng mỡ hành trên mảnh đất tạm dung nầy!

Sát bên nhà tôi là đôi vợ chồng hưu trí, hai ông bà thường tặng chúng tôi rau cải mà họ tự trồng lấy. Có một bàø cụ khác mời chúng tôi đến nhà ăn tối, sau đó bà dẫn chúng tôi xuống xem hầm đồ hộp lưu trữ và cho tôi tự do lựa những đồ hộp tôi thích.

Tôi rất cảm động khi bà trải lên bàn những tờ giấy bạc $100, $50, $20, $10, $1, 50 cents, 10 cents, 5 cents, 1 cents và bà cẩn thận chỉ cho tôi cách xử dụng những loại tiền nầy, sau đó bà nhét tất cả tiền vào tay tôi để tôi đi chợ.

Đôi khi đi chơi với các bà, về đến nhà, tôi đã thấy ai đã để sẵn những trái cà chua, khoai tây, squash, cà rốt... trước cửa với những lời chúc tốt đẹp.

Tôi ít khi gặp ông bà chủ nhà, ông Bob và bà Alma Vardy, vì sáng sớm họ đã ra tiệm chụp hình đến tối về nhà.

Có lần cần ủi đồ, tin tưởng tài nói tiếng Anh của mình, tôi đã mạnh dạn gõ cửa nhà bà chủ nhà mượn bàn ủi. Bà chủ khoảng 60 tuổi đã vất vả nhìn miệng tôi để đoán mà vẫn không hiểu tôi muốn nói gì dù tôi cố gắng nói tiếng Anh thật rõ ràng từng câu. Cuối cùng tôi lấy giấy vẽ hình cái bàn ủi thì bà hiểu ngay. Về sau các bà thường ôm bụng cười lăn khi nhắc đến chuyện nầy!

Ba năm sau tôi đã cho ra đời một bé gái. Ngày đó cả bịnh viện xôn xao dành nhau chạy xem em bé Việt Nam nhỏ như con mèo con có thật nhiều tóc đen.

Đã 25 năm trôi qua, những người bảo trợ chúng tôi giờ đây đã hưu trí. Ông Bob và bà Alma đã nằm sâu trong lòng đất. Mỗi khi nhìn những hình ảnh từ Kansas, những nụ cười thân thương của các ông bà Mỹ năm nào đã gợi lại cho tôi lòng cảm xúc sâu xa, thầm cám ơn các vị đã hết lòng giúp đỡ gia đình tôi những ngày đầu tiên đến Mỹ.

Seneca, một vùng quê hẻo lánh nhưng đầy tình nhân loại.

Hồ Thị Triều-Lam


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,805,333
Tác giả đã nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ 2012. Nguyễn Văn cho biết ông sinh năm 1965, quê ở Phú Yên; Vượt biên năm 1988, hiện sống cùng gia đình tại Chicago. Cho tới nay, ông đã góp 4 bài: “Chuyện Của Bill”; “Tôi Không Là Ai Cả”; “Ngày Tháng Buồn Hiu”; “Mùa Thu Nashville.” Cả ba bài đều cho thấy cách viết tinh tế và sống động. Sau đây là bài viết thứ năm.
Sinh năm 1983, Kim Trần là tác giả trẻ tuổi nhất trong 12 tác giả vào chung kết Viết Về Nước Mỹ 2005 với bài viết ngắn nhất, 727 chữ, "Những bài học đầu tiên về nước Mỹ". Năm 2008, cô nhận thêm giải vinh danh tác giả với bài viết về ma tuý,v "Người Yêu Tôi: Một Con Nghiện." Sau khi tốt nghiệp ngành sư phạm tại đại học Cal State, Kim Trần đã tự sáng lập "School First Learning Center" và hiện có 2 trường dạy kèm rất thành công tại Garden Grove và Westminster. Sau đây là bài cô mới viết.
Đây là bài đầu tiên của một tác giả người Mỹ trực tiếp viết văn bằng Việt ngữ. Email kèm bài viết được ông xưng danh là “Steve Brown tức là Sáu.” Ông chính là “người Mỹ yêu tiếng Việt” mà tác giả Donna Nguyễn đã kể trong bài “Việt Bút, Việt Báo và Chú Sáu.” Mới đây, khi nhắc tới tài làm thơ Việt của ông,
Tác giả là một nhà giáo hưu trí, từng là Chủ tịch Hội Ái Hữu Ninh Thuận, hiện là cư dân Riverside, Nam Cali. Ông đã góp nhiều bài viết đặc biệt cho giải thưởng Việt Báo từ năm đầu tiên, và nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2009. Bài viết mới của ông có tựa đề “Fasting: Vô Chiêu Thắng Hữu Chiêu” gồm nhiều chi tiết đặc biệt sống động về việc điều trị bệnh động kinh. Sau đây là phần đầu.
Tác giả, một kỹ sư điện tử tại công ty Intel, Bắc California, đã 2 lần nhận giải Viết Về Nước Mỹ. Năm 2009, giải danh dự, với bài "Tình Nghĩa, Nghĩa Tình" và Giải Vinh Danh Tác Phẩm 2010 -thường được gọi đùa là giải á hậu- với bài “Việc Làm Ơi, Mi Đi Đâu? Bài viết sau đây đã đăng trong báo xuân Việt Báo Tết Nhâm Thìn, 2012, nhưng chưa có trên online nên xin bổ túc.
Bài viết là chuyện về bé Ti, qua Mỹ 4 năm trước, khi mới 7 tuổi. Vì một tai nạn xe hơi, “Ti bây giờ không còn gì nữa, má đã chết, chân trái Ti bị cụt, tay trái bầm dập.” Có thể tác giả cũng chính là nhân vật trong truyện kể, một bé gái còn ở tuổi thiếu niên. Chúc bé an lành và mong Nhật Mai liên lạc lại với Việt Báo.
Tác giả là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục naêm 2000, từng là nhà giáo trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA. Sau đây là bài mới nhất của ông.
Tác giả là cư dân Austin, Texas; Công việc: y tá trưởng trong một bệnh viện thành phố, đã góp nhiều bài viết sống động và nhận giải vinh danh tác giả Viết về nước Mỹ 2006. Bài mới của cô là một truyện gia đình Việt Mỹ và tình yêu đồng tính.
Tác giả dự viết về nước Mỹ từ năm đầu, từng nhận giải tác phẩm xuất sắc 2002, giải Việt Bút 2010 và hiện là thành viên ban giám khảo chung kết. Tác phẩm đã xuất bản: Chuyện Miền Thôn Dã. Sau đây là hai bài viết mới của ông. Tuy tựa đề kêu buồn nhưng không buồn chút nào.
Trước 30/4/1975, Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh từng viết nhiều truyện ngắn trên bán nguyệt san Tuổi Hoa, và các truyện dài xuất bản bởi Tủ Sách Tuổi Hoa - hiện có trên trang mạng: http://tuoihoa.hatnang.com/ và http://www.camlinguyenthimythanh.com Sau ngày 30/4/1975, Cam Li không viết nữa, chỉ chuyên làm công việc nghiên cứu khoa học.
Nhạc sĩ Cung Tiến