Hôm nay,  

Giàn Thanh Long Trên Đất Khách

13/03/200100:00:00(Xem: 180491)
Bài tham dự số 198-VB1211

Như Ngọc, là tác giả bài "Công Dân Thế Giới", Viết Về Nước Mỹ, đợt I. Hôm thứ bẩy, trong dịp ra mắt sách "Gọng Kìm Lịch Sử" của tác giả Bùi Diễm, cô là người tuổi trẻ được mời phát biểu về thứ "gánh nặng lịch sử" có từ lúc cô chưa ra đời, được trình bầy trong tập hồi ký của vị cựu đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ trước 1975.
Sau đây là bài viết mới nhất của tiểu thư họ Ông, tên là Thụy Như Ngọc góp cho "giải thưởng Viết Về Nước Mỹ" về một đề tài hiếm thấy: cơn đói kiến thức dữ dội của một tuổi trẻ Việt, trước những hiểu biết lớn lao của nhân loại đang được nấu nướng, trưng dọn thành đại tiệc trên đất Mỹ.



Mới năm nào một nhánh thanh long khoảng độ hai gang tay được ba tôi cắm xuống khoảnh đất vườn nhỏ bên bờ tường, giờ đã chỉa thành nhiều nhánh, tươi xanh.

Thanh long là một loại cây thuộc họ xương rồng. Chúng vươn lên mạnh mẽ mà không cần nhiều nước. Tôi ngắm giàn thanh long, nhớ mình có viết một bài dự cuộc thi viết văn do Little Saigon Radio tổ chức khoảng sáu năm trước. Trong đó tôi than là nhớ thanh long như nhớ quê hương Việt Nam và cứ ước ao được thấy lại cây thanh long và nếm lại vị ngọt của trái chín. Lúc ấy, ngoài các siêu thị không thấy bán trái cây này; các gia đình bạn bè ba mẹ tôi cũng không thấy trồng. Bây giờ thì khác. Nhà các bác, các cô chú bạn ba mẹ tôi thường có ít nhất vài nhánh, tuy trái vẫn hiếm. Nhưng mỗi lần đậu, trái nào trái nấy no căng, đỏ tím, vị vẫn ngọt mát. Lâu lâu gia đình tôi lại được may mắn chia nhau một trái từ vườn mình hay vườn của bạn bè.

Hơn tám năm trên đất khách, tôi lại được chiêm ngưỡng giàn thanh long xum xuê, hòa đồng được với phong thổ xứ lạ để tồn tại và lớn mạnh. Phải chăng nó cũng như những người Việt tha hương đã và đang hòa nhập vào cuộc sống của cộng đồng thế giới để phát huy tiềm lực và tài năng của mình"

Dù hai mươi lăm năm hay tám năm trong trường hợp tôi, người Việt hải ngoại đã tìm thấy cái may trong cái rủi sống tha hương như cây thanh long đã hiểu được tính gió và chất đất mới để đâm nhánh nở hoa.

Tôi xuất ngoại sang Hoa Kỳ cùng gia đình năm 1992 vừa kịp lúc để nhập học lớp 10 trường trung học Woodbridge, thành phố Irvine, tiểu bang California.

Năm đầu ở Mỹ, ranh giới giữa ngày và đêm thật rõ rệt. Ban ngày, tôi chạy từ lớp này sang lớp khác, nuốt vội từng mớ kiến thức mới trong suốt bảy giờ đồng hồ liên tục. Chưa bao giờ tôi tham ăn tham uống đến thế, cứ như người bị bỏ đói lâu ngày được thết một bữa tiệc thịnh soạn không bằng. Đêm về, xong bài vở, tôi nằm quay mặt vào tường, đánh rớt mình vào giấc ngủ đầy mộng mị về đất nước bên kia bờ đại dương.

Năm thứ nhì rồi năm thứ ba trôi qua, những giấc mơ về cảnh trí Việt Nam không còn rõ mồn một như ảnh chụp. Chúng nhòa dần. Đến năm thứ tư khi tôi lên đại học, chúng trở thành các bức họa thuộc trường phái ấn tượng, mờ mờ ảo ảo.

Sau ba năm trung học, tôi cũng khôn ra và bắt đầu tìm cách chế ngự cái đầu háu đói của mình. Thoạt tiên, tôi đăng ký vào ngành sinh vật học ở Đại Học Cal State Fullerton, dự tính học dược sau khi tốt nghiệp. Chuyên ngành sinh vật có lẽ là một trong những cách khá hay để thu hẹp ý thích và tạo một định hướng nghề nghiệp rõ rệt cho tương lai. Vả lại, nhìn xung quanh mình, tôi thấy họ hàng, con cái của bạn bè ba mẹ tôi, và nhiều người Việt khác đều chọn những ngành nghề cụ thể, như y dược, kỹ thuật, và điện toán. Phần lớn đều thành công với nghề nghiệp vững vàng. Tôi nghĩ mình nên theo bước chân của họ vì mình ở xứ lạ quê người nên cần tạo một chỗ đứng cho chắc. Và tương tự nhánh thanh long run rẩy, non nớt ba tôi vừa trồng xuống khu đất lạ, tôi thực hiện điều ấy được... một năm!

Đến năm sau, "cơn đói" lại trỗi dậy.

Lý do là tôi thấy có quá nhiều "món ngon vật lạ" bày ra trước mắt mà không "đánh chén" thì uổng. Nào là hàng trăm lớp học, hàng mấy chục chuyên ngành khác nhau. Nào địa lý học, hội họa, âm nhạc, tâm lý học, môi trường học (environmental studies), sử học, đạo giáo học (religious studies), triết học, phụ nữ học (women studies), thiếu nhi và thiếu niên học (child and adolescent studies), sư phạm, chính trị học, Mỹ học (American studies), Á Châu học (Asian studies), người-Mỹ-gốc-Á học (Asian American studies), người-Mỹ-gốc-Latin học (Chicano studies), Phi học (African studies), kinh tế học, v.v. Cái gì cũng có thể học được!

Suy nghĩ mãi, tôi thấy mình không thể chỉ thu mình vào một ngành học duy nhất để ra bán và bào chế thuốc, không quan tâm đến sự đời và cái thế giới càng ngày càng nhỏ lại ở xung quanh. Mà thế giới ngày càng nhỏ thì kiến thức mình lại càng phải được mở mang để đón nhận thế giới. Thế là tôi quyết định đổi sang ngành tâm lý học để gần với con người hơn.

Khi vào ngành, tôi lại thấy một chân trời mới. Tâm lý học không đơn giản như sinh vật học. Có quá nhiều hướng đi và phương pháp nghiên cứu. Theo bảng phân loại của Hội Tâm Lý Hoa Kỳ, có hơn 50 phân ngành trong cái gọi là tâm lý học. Một số phân ngành chú trọng đến sự liên quan giữa bộ óc và hành vi, số khác chuyên giải thích hành vi con người qua các mối giao tế với xã hội, lại có những khối chỉ quan tâm đến một mặt ứng dụng nào đó của các thuyết tâm lý học.

Tôi đứng giữa cái bùng binh có hơn 50 lối đi, hoang mang không biết chọn lối nào. May cho tôi, chương trình học đã được xếp đặt quy củ và khoa học, nên tôi chỉ việc theo để có khái niệm tổng quát về các phân ngành chính trong môn tâm lý học.

Nhưng dù ngành tâm lý có rộng hơn sinh học, tôi vẫn thấy học trình được dựa trên một số tiền đề nhất định, cho dù đó là tiền đề có tính cách khoa học. Như vậy là chấp. Khi nhận ra có chấp ngã là phải phá. Thế là tôi học thêm ngành phụ là triết và âm nhạc. Nhạc lý để hiểu âm thanh. Còn triết để học cách đặt câu hỏi. Cả hai ngành đều có những tiền đề khác với tâm lý học. Riêng triết học giúp tôi rất nhiều trong việc phá cái chấp kiến thức trong ngành tâm lý.

Xong bốn năm cử nhân, tôi đã hoàn tất hai đề án nghiên cứu trong hai phân ngành có ứng dụng hoàn toàn khác nhau, tâm lý giáo dục (educational psychology) và tâm lý người tiêu thụ (consumer psychology).

Đang phân vân giữa hai ngành để đi vào hậu đại học, tôi được một người bạn giới thiệu ngành tâm lý chính trị (political psychology). Trí tò mò trỗi dậy, thế là tôi lại lao vào tìm hiểu phân ngành này. Ngành này mới phôi thai từ trong chính trị học để nghiên cứu về sự liên quan và các ảnh hưởng giữa cá nhân đối với chính thể, tâm lý giữa các quốc thể, v.v. Cuối cùng, tôi đã tìm thấy một ngành học có tính cách liên ngành (interdisciplinary) và ứng dụng được vào viễn ảnh của một cộng đồng thế giới trong tương lai.

Khi lên cao học, tôi quyết định theo ngành tâm lý chính trị. Nhưng trường tôi đâu có lớp dạy ngành này. Tuy nhiên, phân khoa cũng chiều ý học trò; họ cho phép tôi dùng một số tín chỉ (credits) bên chính trị học để lấy bằng cao học về tâm lý.

Mùa hè vừa qua, vị giáo sư bảo trợ luận án đề cử tôi sang khóa tu nghiệp tâm lý chính trị ở Đại Học Tiểu Bang Ohio (The Ohio State University). Tôi may mắn được là một trong số 42 sinh viên hậu đại học, nhân viên chính phủ, và giáo sư đại học từ các châu Á, Aâu, và Phi, tham dự khóa học ấy.

Các buổi học do các bậc thầy đứng đầu trong ngành thuyết giảng. Tôi vừa được thêm kiến thức vừa được tiếp xúc trực tiếp với các vị giáo sư này nên nhiều đề tài nghiên cứu lại nảy sinh. Không như hồi trung học, tôi "nhai" kiến thức kỹ hơn bằng cách đặt nhiều câu hỏi và phân tích, tổng hợp những khía cạnh của một vấn đề... trước khi "nuốt". Aâu đó cũng là một cách phá chấp.

Ngoài việc thực tập nghiên cứu một số đề tài tâm lý chính trị, tôi vẫn không "tha" các "món" khác trong "thực đơn" nghiên cứu trong ngành tâm lý. Với học bổng và các ngân khoản khác của nhà trường và một vài mạnh thường quân, tôi tiếp tục loay hoay chuẩn bị xuất bản hoặc thuyết trình tại các hội nghị chuyên môn về kết quả học sinh chấm điểm thầy cô giáo, những cuộc thí nghiệm ảo giác (visual illusions), cái nhìn của người tiêu thụ về các mặt hàng giảm giá, tác dụng của âm nhạc lên khả năng suy luận không gian (spatial reasoning), những giải thích về các vụ tự tử.

Nhưng kiến thức có ích gì nếu không chuyển tải được vào cuộc sống"

Khi chọn ngành tâm lý chính trị, tôi nghĩ đến tương lai Việt Nam và vị thế của nước tôi trên chính trường thế giới. Sự đa dạng trong mọi ngành nghề là điều tất yếu để dựng xây lại quê hương nếu có dịp. Học gì thì học, khi ứng dụng vào cuộc sống là lúc lời căn dặn của ba mẹ tôi vang lên bên tai: "Thành nhân khó hơn thành tài".

Tất nhiên, "một con én không làm nên mùa xuân", hay, trong trường hợp của ba tôi, một nhánh thanh long không làm nên một giàn thanh long. Nhưng gặp phong thổ tốt, thanh long Việt Nam vẫn có thể ra hoa kết trái trên đất khách.

Tôi tin tưởng vào những nhân tài Việt Nam ở hải ngoại và vào cái vốn văn hóa đạo đức của Việt tộc./.

Ông Thụy Như Ngọc
Ngày 3 tháng 12 năm 2000

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,858,702
Mỗi khi hạ về, ngày của Mẹ lại đến. Bất chợt, bâng khuâng, tôi bỗng thấy ganh tỵ với những ai còn được cài bông hồng trên áo!   Sự ganh tỵ ích kỷ, nhỏ nhoi nhưng thật khó tránh khỏi. Thế rồi mọi ký ức, kỷ niệm với Mẹ, về Mẹ lại ùa về vỡ òa từng rung cảm để tôi không thể không cầm viết.   Viết không hay, nhưng phải viết vì
Con may mắn được mẹ sinh con tại Mỹ, tỉnh Alexandria bang Virginia . Mẹ dạy con nói tiếng Việt từ thuở còn thơ. Mẹ nấu cơm Việt cho con ăn. Mẹ kể lại chuyện xưa, ông bà ngoại dạy dỗ mẹ chu đáo nên ngày nay nhờ kinh nghiệm đó mẹ rèn luyện chúng con nên người tốt. Mặc dầu sanh đẻ tại Mỹ nhưng con lúc nào cũng nghĩ tới
Chiều nay trên đường từ sở về nhà, con đã chứng kiến một tai nạn giao thông khá nghiêm trọng. Ba xe cứu thương đến vây quanh làm lưu thông bị tắc nghẽn. Khi đi ngang qua hiện trường, con đã nhìn thấy các nhân viên cứu thương đang cố gắng cưa những mảnh sắt móp méo để lấy người bị thương đang kẹt trong xe
Tác giả là một nhân viên ngân hàng, cư trú và làm việc tại Seattle , tiểu bang Washington . Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà, “Con Đi Trường Học...” là thư của một bà mẹ độc thân viết cho con gái đi thực tập tại một nước châu Phi, đã được phổ biến ngày 13-1-2006 với bút hiệu Hồng Ngọc-Vương. Bài viết thứ hai
Mẹ ơi! Biết bao giờ con mới được gọi lại tiếng "Mẹ" ngọt-ngào đầy yêu-thương này! Ngày Mẹ còn sống, gọi tiếng Mẹ đã thấy ấm lòng, thấy chứa-chan tình-cảm. Bây giờ Mẹ không còn nữa, tiếng Mẹ làm con xót-xa tận cõi-lòng, chẳng bao giờ con còn có dịp ngồi bên Mẹ, nắm lấy tay Mẹ rồi nói
Những ngày đầu bà Bẩy vui vẻ đi đây đi đó. Thấy gì cũng lạ, cũng đẹp, nhưng cái cảm giác lớn nhứt bà có là thấy mình   an toàn.   Không bị hạch xách, không bị hỏi han, điều tra, điều này điều nọ, bị sợ sệt khi phải đến cơ quan công quyền mà bà đã gặp phải ngày xưa.... Trong bữa ăn tại nhà con gái, có đông đủ
Bởi vì Việt Kiều chẳng mấy ai quan tâm đến những điều ấy, có người không chịu ở nhà mà ra ở khách sạn   cho thoải mái và chẳng muốn làm phiền đến ai. Họ muốn thăm ai thì tự nhiên đến nhà, ăn uống thì đơn giản không cầu kỳ, chẳng cần cao lương mỹ vị gì hết, có rất nhiều người xà vào quán hàng trong nhà lồng
Tôi mơ mơ màng màng nheo mắt nhìn chiếc đồng hồ bên cạnh giường ngủ, và vội vàng ngồi bật lên vì đã gần 12 giờ trưa. Đầu óc tôi vẫn còn choáng váng và khó chịu lắm, nhưng nghĩ tới mảnh giấy mẹ để trên gối, tôi chạy vội ra nhà bếp không kịp đánh răng rửa mặt. Tối hôm qua, phải nói là sáng nay mới đúng
Con không dám đi cửa trước, con vòng ra cửa sau. Mùa Xuân đã trở lại, những củ   tulip con trồng trên luống mùa thu năm nào trước khi bỏ đi đã mọc lên và ra hoa, những bông hoa tulip mà cha yêu. Mọi thứ trông buồn bã và tàn tạ, chỉ có những bông hoa tulip rực rỡ. Mầu đỏ và vàng, xen lẫn với những mầu hồng nhạt
Vì nhà tôi khá xa trường, tôi luôn cố gắng căn giờ để dù có kẹt xe cũng tới trường sớm ít nhất nửa giờ. Tôi muốn tránh cho mình tình trạng phải phóng xe vội vã trong nỗi hồi hộp lo âu sợ trễ; hoặc hớt hải tới trường vừa sát giờ dạy; hoặc tệ hơn, tới sau khi chuông vào lớp đã reo! Kinh nghiệm cho tôi biết, chính trong ít phút
Nhạc sĩ Cung Tiến