Hôm nay,  

Mắt Thấy Tai Nghe Ii: Sinh Sống

01/01/200100:00:00(Xem: 162369)
Hầu hết đoàn người Việt qua Mỹ trước năm 1975 đi học chữ, học nghề trong các đại học hay trong trường huấn nghệ. Những người nầy không phải vất vả đi kiếm sống hằng ngày. Học xong họ về nước.

Biến cố 1975 tạo một đoàn người Việt ồ ạt đến tỵ nạn ở Mỹ. Những người Việt nầy và những người bị kẹt lại ở Mỹ trở thành những người Việt tỵ nạn đầu tiên. Cuộc sống của những người nầy có phần giống nhau. Họ được chánh phù Mỹ giúp đỡ, nên thông thà học chữ hay học nghề. "Vạn sự khởi đầu nan" rất đúng với họ. Có những vị khổ sở về tinh thần khi đi làm ở Mỹ. Họ nhớ lại những thời vàng son thét ra lửa, dưới tay có bao nhiêu người phục vụ tuân lịnh chỉ thị. Vì "có làm có huởng" và "tay làm hàm nhai" nên các vị ấy phải cắn răng chịu đưng.

Đến giai đoạn vượt biên, thì những thuyền nhân trãi qua giai đoạn khác. Rất nhiều người, không những giới nữ ma giới nam cũng phải ráng làm việc thật nhiều để quên đi những ngày khổ cực, thiếu tự do sống trong chế độ cộng sản. Nhiều thuyền nhân đã cố quên đi những đau thương, hãi hùng của cướp bốc, hãm hiếp, chết chóc, bão táp và chờ đợi định cư. Cộng sàn vào làm nước mất, nhà tan và gia đình ly tán. Tưởng khi qua Mỹ, một đất nước tự do thì sẽ hàn gắn được vết thương chia lìa. Nhưng trong sự chờ đợi, niềm hy vọng không được nuôi dưỡng, hay sự thủy chung không còn ở thực tế nữa, cảnh ly tán của cộng đồng Việt Nam ở Mỹ đổi theo chiều hướng khác. "Oâng ăn chả" thì "bà ăn nem". Thay đổi vợ chồng như thay đổi quần áo. Con cái thì quên dần thuần phong mỹ tục của người Việt. Nhưng người trẻ tuổi hội nhập vào đời sống mới quá mau lẹ. Aên ở với nhau trước, được thì cưới nhau, không được thì "tình chỉ đẹp khi còn dang dở". Lấy nhau không được thì coi nhau như bạn mà thôi, hay tôi và anh chưa hề quen nhau, đừng thù nhau là đủ rồi.

Những thuyền nhân nầy trãi qua những kinh nghiệm sống khác. Trợ cấp bị cúp giảm, nên ráng học cho nhanh ra làm việc nuôi thân. Cũng trong giai đoạn nầy nhiều cơ sở thương mãi Việt Nam mọc lên nhanh chóng. "Phục vụ cộng đồng", "đi chợ đồng hương" và "ta về ta tắm ao ta"được áp dụng triệt để. Những tiệm tạp hóa và nhà hàng ra đời đầu tiên nhất. Nhờ những người Việt qua trước mở nhiều tiệm nên người Việt ở Mỹ được tự do chọn nước mắm hảo hạng. Những bà nội trợ vui mừng vì những món ưa chuộng có đủ vật liệu, lương thực để làm cho "cơm nhà ngon hơn".

Một tiệm moc ra, hai tiệm mọc ra, rồi nhiều tiệm mọc ra như trăm hoa đua nở. Như ở California có khu siêu thị như "Little Saigon" và "Phúc Lộc Thọ" ra đời. Người Việt quay về sống đông đúc trong nhũng thành phố đầy hứa hẹn. Những gia đình mà cả hai vợ chồng đi làm, khi về ra tiệm ăn hay mua về ăn hoặc đặt cơm tháng. Bận rộn không cần nấu mà hương vị gia đình vẫn đầy đủ ấm cúng. Graden Grove, Santa Ana, San Jose ở California hay Chicago ở Illinois hay Atlanta ở Georgia, Houston ờ Texas và Seattle ở Washington trở thành những tỉnh quen thuộc trong cộng đồng người Việt. Những nơi nầy trở thành nam châm, thu hút bao nhiêu người Việt. Thậm chí những địa danh nầy trở thành nơi chốn thiên đàng trong giấc mơ mà người Việt ở xa muốn về sinh sống hay ghé thăm.

Nhũng tiệm ăn lo cho bao tử đồng hương ra đời, rồi lần lượt tiệm sách, báo, phim ảnh cũng được sinh ra để phục vụ tinh thần đồng hương. Không ai mà không biết có một thời phim Hồng Kông phụ đề Việt tràn ngập thị trường. Bà con ta bỏ ăn, bỏ ngũ và cáo bịnh nghỉ làm để ở nhà coi phim Hồng Kông. Thậm chí có người còn để nồi thịt kho đang nấu giao cho ông Táo trông. Nóng quá ông phải gọi bà hỏa lên hương khói cho ông bay về trời. Làng xóm gọi 911, mà bà nội trợ nầy không hay vì đoạn phim tới hồi gay cấn và máy báo cháy nhà đã hết pin, quên thay.

Nhũng tiệm lo dịch vụ khác cũng lần lượt ra đời. Ở trong nhà cũng có dịch vụ nữa. Con cháu qua sau trở thành những người giúp việc không công. Nhề sinh sống còn có nghề giữ trẻ tại nhà, bao ăn và bao ở với tiền lương là tiền mặt không thấm vào đâu. Kiếm vaì trăm đô mỗi tháng mà "chỉ ngồi nhà chơi với con nít" nên việc giữ trẻ chẳng hề gì. Ngày nầy qua ngày khác, không có thì giờ đi học sinh ngữ hay học nghề. Trẻ lớn, người trở già và tương lai chẳng đi về đâu. Đã vậy mà còn bị nha thuế vụ hỏi sao không chịu khai thuế. Mới biết là cha mẹ đứa bé khai với nha thuế vụ là đã trả tiền công giữ trẻ cho nàng vài ngàn một năm. Tiền bao ăn bao ở biến thành tiền chi phí giữ trẻ. Mọi việc chỉ có qua lời miệng của hai người, không có giấy tờ gì minh bạch. Ruốt cuộc người giữ trẻ phải ngậm đắng tình đời. Có người bỗng ôm mối hận "sầu viễn xứ" và hận người đồng hương. "Cá lớn nuốt cá bé" là cái thế thái nhân tình. Cùng mang hận ly hương trên mảnh đất tự do thì cái nhân tình đó vẫn tồn tại.

Những gia đình có nhà hàng hay vài dịch vụ khác, cho con cháu làm việc, khỏi phải mướn người ngoài và áp dụng theo kiểu buôn bán nhỏ, lấy công làm lời như ở Việt nam. Kiểu buôn bán loại nầy không tồn tại lâu dài. Lý do dễ hiểu: con cháu lớn, cha mẹ trờ nên già. Con cháu còn có tương lai riêng phải lo thì việc nối nghiệp tiền nhân khó mà thi hành.

Có ngưòi còn mướn công nhân trả tiền mặt để khỏi phải trả tiền thuế thêm, tiền bảo hiểm sức khỏe, tiền hưu trí, tiền xã hội vân vân. Cả chủ và thợ làm ăn theo kiểu nầy đều cò lợi trước mắt chứ không có lợi về sau. Có người quản lý cả tiền típ và quên là rằng xứ Mỹ là xứ tự do. Rồi một ngày theo tiếng gọi tự do, con cháu phải lo tương lai cho chính mình, rời bỏ công việc ơn nghĩa hay hiếu để nầy. Thế là kinh tế kiểu lấy công làm lời trong tiểu thương mãi ở xã hội Mỹ nầy không thành công lâu dài là vậy.

Nếu theo kiểu home-based business thì việc cha truyền con nối có vẻ khả quan hơn. Có nghĩa là mở dịch vụ tại nhà hay ngoài phố mà người chủ là ông bố hay bà mẹ và công nhân là con cháu nhưng việc sổ sách lương bỗng, thuế má phải sòng phẳng công bằng. Khi con cháu lớn không muốn làm việc cho cha mẹ nữa thì cha mẹ chỉ cần mướn người khác thế vào là xong. Khi cha mẹ già mà dịch vụ vẫn còn khả quan thì việc bán dịch vụ cho con cháu hay người ngoài vẫn dễ.

Thế giới bước vào thập niên 90, thì làn sóng di dân của người Việt nam cũng bứơc vào giai đoạn khác. Cửa trại tỵ nạn đóng nên chính sách hồi hương nâng cao. Vì thế không mấy ai dám làm thuyền nhân. Hơn nữa Việc ra vào nước Việt nam trở nên dễ dàng, việc nhớ nhung xa cách không còn trắc trở như ngày xưa nữa. Những chương trình đoàn tụ gia đình, cải tạo, con lai đổi người Việt di dân từ thuyền nhân sang "phi nhân" vì những người nầy ra phi trừơng lên máy bay sang nước khác định cư. Những người nầy sống với cộng sản hơi lâu. Có người chưa sống thời vàng son của Việt nam cộng hòa vì còn quá nhỏ hay sinh ra sau mùa hè đỏ lửa. Khi qua Mỹ, có nhiều người mang theo nếp sống vội.

Nhiều người nghĩ rằng bất cứ chuyện gì cứ đút lót là cũng xong. Cũng có người nghĩ mướn luật sư bênh vực là chuyện gì cũng qua nhanh chóng. Như việc làm giấy tờ vào thẻ xanh hay bảo lảnh gia đình, có người nghĩ rằng trả cho luật sư vài trăm đô, ông ấy kiện cáo dùm. Đâu cò ngờ luật sư nầy chỉ có điền giấy tờ rồi nộp cho sở di trú để kiếm sống. Luật Mỹ cứ theo số hồ sơ, qui tắc, luật di dân và luật dành cho người mới qua My là sở di trú lo đâu vào đó. Chỉ tội cho mấy cụ già, phải học tiếng Anh, trau dồi kinh sử Mỹ quốc để hy vọng có quốc tịch bảo lảnh cho con vào thẻ xanh. Đúng là cái nghiệp chướng học hành các cụ phải trả dù ngày gần đất xa trời không bao xa.

Bước vào thập niên 90, nghề may mặc, thêu thùa bị xuống giá, để cho nghề làm móng tay, móng chân (nghề "neo")vương lên. Học có vài tháng ra làm chủ, làm thợ tha hồ hốt bạc. Có người không cần vất vả học thi vì có người thi hộ. Có người làm việc 50-80 tiếng một tuần vì nhàn cư e bất tiện. Họ ráng làm để chứng minh họ qua sau nhưng họ làm tiền còn nhiều hơn kỹ sư, bác sĩ qua trứơc. Nghề móng lúc đầu có lên $60 một bộ. Sau dần thương nhau chia xẻ, ai cũng có công ăn việc làm, nên đại hạ giá xuôùng còn mười mấy đôi mươi. Từ Nam ra Bắc, từ Tây sang Đông, tiệm móng do người Việt làm chủ mọc lên như nấm. Cũng may mà nghề làm móng ra đời trong khi kinh tế nước Mỹ lên như diều gặp gíó. Nếu theo chu kỳ kinh tế của Mỹ, thịnh rồi suy, suy rồi thịnh, thì nghề làm móng lúc suy thì sao" Lúc suy, ai cũng lo đi kiếm miếng ăn, đâu có thì giờ đi trao chuốt cái đẹp. Một điều không ai gíám cải là làm chủ tiệm móng là tự mình làm chủ. Còn kỹ sư vẫn là người làm công. Bác sĩ vẫn phải sống nhờ con bệnh. Bác sĩ đi chùa cầu Phật hay đi nhà thờ cầu Chúa cho bệnh tật tiêu tan giải trừ, thì vị bác sĩ đức độ đó sớm về hưu.

Thời thập niên 90, trợ cấp bị cúp giảm tối đa. Những người qua theo chương trình đoàn tụ mà không biết ý thức, hay trông ngóng nhiều quá thì trở thành gánh nặng cho người bảo lãnh. Mỗi tháng gởi về Việt nam cho gia đình vài trăm thì gia đình sống quá thảnh thơi. Nhưng vài trăm đó cho gia đình bên Mỹ thì sống làm sao nổi. Có người vẫn mộng sống kiểu đế vương chỉ ăn chơi và luyện phim. Có người thay vì trông cháu vui tuổi già như các cụ ngày xưa, các cụ đi xòe mấy đám tổ tôm, về du lịch Việt nam ít nhất mỗi năm một lần cho oai vệ hay du lịch vòng quanh thế giới vì được mách bảo phài hưởng cuộc đời kẻo tận thế hay biến cố năm 2000. Có nhiều cụ muốn trông cháu nhưng lại trông không được vì nuôi con theo kiểu Mỹ các cụ đâu có quen. "Thương cho roi cho vọt" không còn hiệu nghiệm vì cụ vừa cho đòn một cái là cụ có thể về bót về cái tội hành hạ trẻ con. Đến cái màn cạo gío cũng đã gây nhứt đầu cho cảnh sát Mỹ và gia đình Việt nam. Cảnh sát Mỹ không biết cha mẹ trị bệnh cho con theo truyền thống, lại tưởng đã đánh con bầm cả lưng. Nuôi con cho quá mập béo hay quá còm nhom cũng không xong. Luật Mỹ bênh vưc trẻ con tối đa, cho vào giữa khó khăn, nên tự các cụ cho các cụ vào giữa. Xung đột trong gia đình xãy ra trong nhiều gia đình vì người qua trước cách người qua sau một thời gian quá lâu. Trong nhà nhiều người Việt, ăn cơm Việt, nói tiếng Việt với nhau mà như có hai thế giới khác nhau.

Thuở thập niên 90 cũng gây cay đắng cho nhiều vị qua trước và làm ở sở trợ ấp. Những vị qua sau, đi xin trợ cấp thì bị mắng xéo là ăn bám xã hội, làm xấu cộng đồng. Có người còn tự vỗ ngực tự hào cho rằng "kẻ có học mới làm cho nhà nước, kẻ thất học thì làm cu-li". Có ngờ đâu trợ cấp cúp thì việc làm của họ cũng không còn. Aên trợ cấp chỉ là vay trước trả sau. Không có sự trợ giúp lúc đầu từ người thân hay chình phủ, đố ai vùng dậy được ở xứ người. Có những người đi ăn trợ cấp mà mặc quần áo chỉnh tề sang trọng, đeo vàng kim cương sáng cả tay, đi xe láng cón tới chỗ xin trợ cấp đã là con sâu làm rầu nồi canh. Tiền trợ cấp làm sao sống giàu nổi. Tương lai cũng chẵng đi về đâu nếu cứ ngồi nhà sinh con. Chỉ có tội cho người thật sự cần trợ cấp xã hội.

Trong đám dân Việt cũng có người ghi nên trang sử vẻ dang cho dân tộc lúc ở xứ người. Dân Việt qua Mỹ có đủ thành phần: đầu trộm đuôi cấp, đĩ điếm, sống chụp giựt cũng có. Nhưng bác sĩ kỹ sư, hạng cao cấp thượng lưu cũng nhiều. Có người vì ngựa quen đường cũ, tiếp tục nghề xưa. Có người đổi đời đổi thân. Thành công hay thất bại ở xứ người cũng quay về với qui luật Tạo Hóa "trăm sự tại nhân, thành sự tại thiên." Đường trần ai cũng phải qua thì mới biết Thượng Đế đã an bài như thế nào. Người Việt di dân trong 100 năm đầu là người dựng lên trang lịch sử di dân của nguời Việt nam. Người đi trước muốn gieo giống gì thì mấy trăm năm sau giống đó vẫn còn được gặt ở xứ người. Những ngày trong trận chiến, một sống một còn. Những ngày nhục nhằn trong trại cải tạo. Những ngày dài lê thê chờ đợi chồng con về. Những ngày lênh thênh trên biển cả và những ngày chờ đợi định cư. Những ngày xa cách hai đại dương rồi cũng sẽ chôn dần theo năm tháng. Chỉ có trang sử viết lại đánh dấu ngày xưa. Mắt thấy tai nghe là những tiếng khóc tiếng cươì.

Dù sao đi nữa, hai nước, hai dân tộc, hai phong tục, hai văn hóa cách nhau một nửa quả địa cầu làm sao quyện vào nhau hoàn toàn được. Chỉ cần nghĩ con đường đối lập, rồi chọn con đường đi là sống qua thời gian. Ngày ở Việt nam là đêm ở Mỹ. Ngày ở Mỹ là đêm ở Việt nam.

KHANH PHAN

(Bài tham dự số 128-VB 0102)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 865,318,409
Với bài "Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine", tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016 và vừa nhận thểm Giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2018. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả tên thật Lý Tuyết Mai, cư dân Pomona, CA. làm việc tại Bộ Xã Hội. Đến Mỹ khi còn tuổi học trò, cô thuộc "thế hệ gạch nối" của người Việt tại Mỹ. Với bài viết về chính sách của Bộ Xã Hội Mỹ đối với trường hợp một cô bé gốc Việt 16 tuổi mang bầu, Bảo Trân đã nhận giải Vinh Danh Tác Phẩm - thường gọi đùa là giải á hậu - Viết Về Nước Mỹ 2009. Sau đây là bài viết mới của cô.
Tác giả là một cựu tù cộng sản, hiện sống ở Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, và từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông. Sau giải Đặc Biệt năm 2017, với bài viết của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan, ông được trao thêm giải Danh Dự VVNM 2018. Sau đây là bài viết mới của ông, từ Cameroon, một nước ở miền trung Phi châu.
Viết Về Nước Mỹ năm thứ 20 trân trọng chào mừng thêm một người viết mới. Theo bài viết, từ 1978, Ngọc Ánh đã là tác giả những trang nhật ký của một nữ sinh viên viết từ Sài Gòn, được đăng trên bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại tại San Diego. Và từ 1979 thì cả nhà người viết đi tù. Người chồng bị kết án tử hình. Cháu bé mới sinh một tuổi theo mẹ vô nhà tù. Nhưng hơn 10 năm tù đày cộng sản không làm bà gục ngã. Và rồi, tình yêu đến... Thư kèm bài, bà viết “Tôi tên thật là Trần Ngọc Ánh, hiện đang sống tại thành phố Victorville, CA. Lần đầu tiên tôi viết bài tham dự "Viết về nước Mỹ" và hy vọng sẽ có nhiều bài viết về chủ đề này gởi đến Việt Báo trong năm nay...” Khi thêm bài mới, mong tác giả bổ túc ít dòng tiểu sử và địa chỉ liên lạc.
Tháng Năm 2018, tại Việt Báo Gallery, có buổi ra mắt sách Anh ngữ "Finding My Voice—A Journey of Hope” tác giả Crystal H. Vo tức Võ Như Ý, một tác giả từng dự Viết Về Nước Mỹ từ 2009. Cô sinh năm 1970 ở Đà Nẵng. Năm 15 tuổi vượt biên cùng một người anh, tới Mỹ năm 1986 và thành công dân Mỹ với tên Crystal H. Vo. Cô hiện là cư dân San Gabriel, CA. và làm việc tại Sở Xã Hội Quận Hạt. Trong những năm ngừng viết về nước My,õ cô kết hôn, thành con dâu một gia đình Mỹ và đã dành trọn thì giờ để học sống và viết bằng Anh ngữ. Sau đây là bài viết mới nhất của cô sau họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016. Với sức viết mạnh mẽ, tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, bà có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Sau đây, là bài viết mới nhất, khi tác giả bay từ Arkansas về họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Và...
Chỉ với bài viết đầu tiên, tới vào tháng cuối, Tác giả đã nhận giải Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Thư kèm bài, tác giả viết “Tôi tên Tố Nguyễn, đang làm tax accountant ở Los Angeles, thường xuyên theo dõi mục Viết Về Nước Mỹ. Tôi rất xúc động khi đọc những câu chuyện đời của người Việt trên xứ Mỹ, giờ tôi xin góp câu chuyện thật của tôi...” Sau bài đầu tiên, bước sang năm thứ 20 của giải thưởng, tác giả đang tiếp tục cho thấy sức viết ngày càng mạnh mẽ hơn. Sau đây là bài viết của cô về lần đầu họp mặt Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả sinh năm 1953, tốt nghiệp Sư Phạm Sài Gòn khóa 12. Vượt biên sang Mỹ 1982, và từ đó tới nay định cư tại San Jose; Nghề nghiệp: Mechanical Designer, về hưu tuổi 65. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là chuyện vui về nhóm bạn trường Sư Phạm Sài Gòn, khóa cuối cùng, ra trường năm 1975, kèm lời ghi của tác giả: “Thân tặng các bạn lớp Nhất 9/Nhị 15, khóa 12 (1973-75) Sư Phạm Sài Gòn.”
Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016. Với “Viên Đá Kỳ Diệu,” một trong bốn bài viết về nước Mỹ của ông, Thảo Lan đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19.
Tháng Bảy, mùa Vu Lan, xin mời đọc bài viết về Mẹ của Minh Nguyệt Graves. Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà là chủ tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự năm thứ mười chín, 2018.
Nhạc sĩ Cung Tiến