Hôm nay,  

San Jose Dễ Đi Khó Về

04/05/200100:00:00(Xem: 209187)
Bài tham dự số: 02-235-vb0505

Ông Tân Ngố viết về nước Mỹ bài đầu là “Bên Bờ Freeway”, kể chuyện công việc của các công nhân mang áo mầu cam, chuyên chăm sóc freeway Mỹ, rất được bạn đọc yêu thích. Đáp lời “nhờ vả” của Việt Báo, ông đã giúp phần biên tập đặc biệt cho giai phẩm Việt Báo Tết Tân Tân Tỵ vừa qua. Sau đây là bài viết mới của ông, kể chuyện San Jose, đặc biệt là “đi đào ốc vòi voi ngoài cồn cát ở vùng vịnh San Francisco.”



Cách đây hơn bốn năm, tôi đến San Jose để làm việc một tháng. Bây giờ ‘’Đến hẹn lại lên‘’. Mà ở đây tôi đang rảnh, thế mà cũng chỉ một tháng là vội trốn về.
San Jose với đường xá mở rộng thêm nhiều, nhưng xe cộ vẫn kẹt cứng. Những khu kỹ nghệ to lớn với parking đậu đầy xe loại mắc tiền; Ánh đèn ở những khu thương mại chói chang, xứng danh là thung lũng điện tử nổi danh trên toàn thế giới. Ấy vậy mà bên cạnh những cao ốc, vẫn còn rất nhiều đất để hoang, có hoa vàng nở rộ và hai bên xa lộ, đôi khi ta còn bắt gặp vài chú nai đi ngơ ngác, nhất là đi lên hướng Saratoga, highway 9. Cảnh trí nơi này không khác gì Đà lạt, với núi đèo, thác suối. Tiếng lá reo hòa với tiếng suối róc rách, làm cho ta ngỡ rằng đã lạc vào chốn thiên thai.
Có lẽ vì không một ai than phiền với sở Animal Control, nên tuy là một thành phố lớn, nhưng nửa đêm về sáng, người ta vẫn nghe thấy tiếng gà eo óc gáy. Tôi phần thì nhớ nhà, phần thì bị bệnh mất ngủ, lại càng không ngủ được. Cảnh thổ ở bên quê nhà cứ lởn vởn trong trí, với bờ ao ruộng lúa. Mỗi lần nghe tiếng gà gáy, tôi lại nhớ bài thơ Nắng Mới của Lưu Trọng Lư :

Mỗi lần nắng mới hắt ven song
Xao xác gà trưa gáy não nùng
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không

Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời
Lúc người còn sống tôi lên mười
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
Áo đỏ người đưa trước dậu phơi

Hình bóng mẹ tôi chửa xóa mờ
Vẫn còn mường tượng lúc vào ra
Nụ cười đen nhánh sau tay áo
Trong nắng trưa hè trước dậu thưa.

Mẹ tôi còn sống, mà mỗi lần đọc bài thơ này là tôi muốn sa nước mắt, tôi thương cảm giùm những người mất mẹ.
Rất may cho tôi là lần này lên làm việc đúng vào dịp hãng có vài công việc được trả tiền theo đầu người, nghĩa là làm việc tà tà, không chuyên môn cũng được (Những công nhân này được gọi là Cà Đơ).
Dân Cà Đơ không lái được xe Heavy equipment, không biết chạy dây điện, cũng được trả ba bốn chục đồng một giờ. Tôi cũng thuộc diện Cà Đơ, nhưng may quá, được trả tới năm chục, nên khi cầm tấm check, nặng trĩu cả hai tay.
Lần này, tôi cũng có dịp đi làm chung với nhạc sĩ Trần Chí Phúc. Không biết nhạc của anh ta hay tới đâu, nhưng giọng ngâm thơ của anh vang lên, lẫn trong tiếng suối nơi Highway 9, đã làm ruột gan tim phổi tôi lộn tùng phèo :
Vú em như cái chũm cau
Cho anh bóp cái, có đau anh đền.
Nơi đây, phiá Tây Bắc San Jose, giữa rừng thông cao vút, có con đường nhỏ dẫn vào một trang trại trồng nho, mà những gốc nho già gần hai trăm tuổI, lớn bằng bắp vế, có cơ sở làm rượu Savanah Winery và tasting room. Lúc chúng tôi vào phòng nếm rượu, đã có dăm ba người Mỹ đang uống rượu trong những ly chân cao. Người phụ nữ rót rượu tươi cười giải thích từng màu sắc của từng ly rượu và nói rằng mỗi người khách phải trả bảy đô la. Chúng tôi đồng ý và sau khi uống đến ly thứ ba là đã thấy chếnh choáng. Rượu vang tuy coi vậy, nhưng độ rượu cũng mạnh ra gì.
Không biết là tại vì thấy chúng tôi mặc áo màu vàng trông hem hễ quá, hay tại nhìn thấy ông Chí Phúc và tôi đẹp trai quá, mà cô bán rượu, sau cùng không tính tiền. (Vì đi chung với ông Chí Phúc, nên bạn bè gọi tôi là Chí Phèo ). Số tiền rượu không phải trả, nếu đem mua bia, thì cả bọn uống cả tuần không hết.
Một hôm ủi đất kế bên mương nước, tôi bị giật mình vì con vịt trời vụt bay lên, khi nhìn trong đám cỏ có ổ trứng 12 cái. Tôi cũng chẳng muốn lấy trứng làm gì, nhưng nếu không dẹp ổ vịt qua một bên, thì không có chỗ mà làm. Hai con vịt cứ bơi qua, lội lại trên mương nước nên chúng tôi bảo nhau :
- Nếu không sợ bị phạt 500 đô, tụi mình vơ hai con vịt này về thì tối nay có tiết canh.
Ngồi nhìn hai con vịt, tôi lại nhớ tới ngày còn nhỏ (tôi có cái tật hay nhớ như vậy), ngồi làm vịt ở cầu ao, lúc làm bộ lòng, vì tính hay lơ đãng nên đàn cá lòng tong bu lại rỉa gần hết tôi mới nhớ ra, tức nổi xung lên, tôi cằm con dao phay chặt đại xuống mặt nước mấy phát, cả chục con cá đứt đôi nổi phều lên mặt nước. Cho đáng đời, ai biểu mày rỉa!


Hồi còn ở Orange County, có những cuối tuần tôi không biết đi đâu, làm gì cho qua ngày, nhưng những cuối tuần ở San Jose lại qua mau quá. Có lần, tôi được rủ đi đào ốc vòi voi ngoài cồn cát ở vùng vịnh San Fancisco.
Sáng thứ bảy, đoàn xe ba bốn chiếc nối đuôi nhau chạy lên hướng bắc. Tôi đi chiếc Ford F150 có kéo theo chiếc canô. Từ San Jose đến San Fancisco cũng hơn một tiếng đồng hồ. Xe rời freeway để theo đường nhỏ ngoằn ngoèo qua những nông trại nuôi trừu. Những trảng cỏ non bên sườn núi xanh như ruộng mạ, có vài ba con nai đứng ngơ ngác hiền lành.
Đến bờ biển, những người trong bọn chúng tôi chưa có license câu cá thì phải mua, tốn hơn mười đồng cho hai ngày . Khi cho tàu xuống bến rồi, chúng tôi phải chia ra làm ba toán để ra đảo cát mới đủ chỗ, vì tàu nhỏ.
Chiếc tàu chạy nhanh quá, nó phóng như bay trên mặt nước, chỉ 15 phút đã ra đến nơi. Anh trưởng đoàn giải thích :
- Ốc vòi voi, còn gọi là hến, là sò. Tiếng Mỹ gọi là Horse neck clam, mỗi con nặng hơn hai pound, có vòi lớn bằng nửa cổ tay và dài gần một gang. Nó nằm sâu dưới cát khoảng gần một thước Tây, cứ chỗ nào có cái lỗ cỡ bằng ngón tay, phọt nước ra, thì chắc chắn dưới đó có con hến... (Có tiếng cườI khúc khích). Mỗi người được bắt mười con một ngày, nhưng chúng ta mà bắt được năm con là đã khá lắm rồi, vì mỗi con ngoài chợ bán cũng gần hai mươi đô la.
Chúng tôi tản ra theo bốn toán, mỗi toán có một cái ống nhựa cứng, đường kính khoảng hai gang tay, và dài gần một thước, có hai dây quai để dễ kéo lên, trang bị thêm hai chiếc xẻng cán dài và mấy chiếc thùng đựng.
Mỗi lần có bước chân động trên mặt cát, là những vòi nước lại phụt lên, lỗ hến đầy dẫy không thể đếm xuể.
Cồn cát này chìm dưới mặt nước cả năm, chỉ trong mấy tháng hè mới lộ ra vào những ngày con nước nhỏ, mà cũng chỉ trong mấy giờ mà thôi. Lúc nước triều lên, có nhiều người vì mải mê với sò, với hến,vô bờ không kịp nên xuýt chết vì nước. (Nhưng không được gọi là hy sinh vì tổ quốc).
Đào sò là cả một nghệ thuật: Nhắm ngay cái lỗ, đào chừng vài ba xẻng cát, để cái ống vào rồi nhảy lên trên miệng ống mà nhún nhảy, để cho ống cắm sâu xuống cát. Tại sao lại phải dùng ống như vậy " Bởi vì nước với cát sẽ tràn lấp ngay sau khi ta nhấc xẻng lên, có cố gắng lắm cũng không thể đào sâu đến nửa thước. Vì có ống, nên khi móc cát phía bên trong ống, chúng ta chỉ cần ít phút là đã có thể sờ thấy vòi con hến rồi. Người không kinh nghiệm sẽ nắm lấy cái vòi mà kéo, nó thường đứt luôn, để laị nguyên con sò, mà con này rồi cũng sẽ chết vì cái vòi là bộ phận nó dùng để hút đồ ăn là phiêu sinh vật trong nước biển. Người đào cát phải biết khi nào nương tay, kẻo xẻng sẽ xén đứt luôn cái vòi voi của con sò, mà vòi này là chỗ ngon nhất.
Người đào đương nhiên mệt lắm, nhưng người ‘’mò sò’’ còn mệt hơn, phải nằm dài xuống mặt cát, tay thọc sâu để rờ rẫm xem cái vòi nằm nơi đâu. Khi bàn tay đã nắm được cái vòi, ngón tay trỏ phải nong cát chung quanh vỏ sò ra cho rộng, rồi vừa kéo, vừa lắc mà rút ra. Có nhiều khi con sò ở sâu qúa, người mò sò chui cả đầu vào ống, chỉ còn hai chân loi choi trên mặt cát, nên không có thế để lên, phải la toáng lên thì đồng bạn mới biết mà kéo ra khỏi ống. Lúc anh mò sò thoát ra khỏi miệng ống, mặt mũi lấm lem, tay nắm chặt con sò, thế mà trên môi lại còn nở nụ cười tình. Mặt tươi rói như ông Đại sứ.
Có anh bạn trong bọn chúng tôi, đi tìm những chỗ có hai lỗ ở bên nhau mà đào, thành thử anh ta cứ bắt được mỗi lần một đôi tình nhân sò hến.
Mới xế trưa, mà gió biển thổi mạnh qúa, những người ướt quần áo thì bắt đầu run vì lạnh. Chúng tôi đành ra về vì có lẽ mỗi người đã được cả chục con.
Tôi đã từng nhìn thấy con hến vòi voi nhiều lần được bày bán trong siêu thị, nhưng nhìn nó tôi hơi nhờn nhợn nên chưa ăn thử bao giờ.
Buổi tối hôm ấy, là lần đầu tiên tôi ăn, mà laị ăn sống theo kiểu Sushi, tôi mơí thấy vị ngon ngọt của nó. Hèn chi người Tàu, người Nhật đi đào đông quá. Nhưng họ được ít lắm, mỗi lần bắt được một con, cả bọn hò reo như đào được mỏ vàng. Còn bọn chúng tôi, nếu thả sức cho đào, có lẽ mỗi người sẽ được vài ba chục con, vì chúng tôi là chuyên viên đào mương, đào lỗ ngoài freeway của công ty Amland. Một công ty do người VN làm chủ lớn nhất (nói theo kiểu quảng cáo của những cơ sở thương mại VN), không những riêng ở Cali, mà còn trên toàn cõi Hoa Kỳ. Mà vì là công ty độc nhất, nên không có ai đứng hạng nhì. Sorry!

TÂN NGO

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 866,636,801
Tác giả là một thuyền nhân, hiện là cư dân Quận Cam, đã tham dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2010 với bài viết Bài viết “Từ Câu Chuyện Cậu bé Thành Padua," thể hiện sự phẫn nộ trước việc nươc Tàu cộng sản trắng trợn lấn đất, lấn biển của Việt Nam, bắn giết ngư dân Việt. Sau đây là bài viết mới của bà.
Tác giả là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục năm 2000, từng là nhà giáo trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA. Ông là tác giả đã nhận giải thưởng danh dự Viết Về Nước Mỹ năm 2005. Bài viết mới của ông là một hồi ức dễ thương về đảo tị nạn Galang 2, với lời ghi “để nhớ hai người bạn đã đưa tôi đến Galang, Hải quân Trung uý Đạt và Hoa.
Tác giả họ Vũ, hiện là cư dân California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là “Giấc Mơ Thiên Đường”, truyện ngắn về một thảm cảnh gia đình Việt tị nạn. Bài thứ hai , “Trường Đời: Học Làm Chồng” là một truyện về ông gia trưởng gốc Việt học phép làm chồng từ ông Mỹ hàng xóm. Đây là một truyện vui nhanh chóng đạt số lượng người đọc đáng nể. Bài mới sau đây, tiếp tục cho thấy tài kể chuyện duyên dáng của tác giả. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ hiện phổ biến bài viết của năm 2013. Mong Tuyết Phong sẽ tiếp tục viết.
Tác giả tên thật Hùng Túy Trước, tuổi Giáp Ngọ, cư trú tại Austin, Texas, đã góp nhiều bài Viết Về Nước Mỹ đặc biệt. Giải thưởng Việt Báo năm thứ ba, cùng lúc với giải danh dự, Chúc Chân còn nhận thêm giải "Writing on America" cho bài viết bằng Anh ngữ. Sau đây là bài viết mới nhất của cô.
Tác giả đã góp nhiều bài viết với kiểu “viết như nói” và nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2005. Cô tên thật là Trần Thị Ngọc Trâm, sinh năm 1965 tại Saigon, thứ nữ một gia đình H.O. Công việc đang làm: nhân viên xã hội tại Salem Oregon. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả tự sơ lược tiểu sử: Trước năm 75, còn đi học, chỉ viết cho các báo thiếu nhi, học trò. Qua Mỹ từ 1990. Hiện ngụ tại Myrtle Beach, SC. Hải Âu tham dự viết về nước Mỹ từ 2010, bài đầu tiên: Mẹ Chồng, cho thấy tác giả có bút pháp đặc biệt, khi kể về hồn thiêng yêu thương của bà mẹ chồng. Bài thứ hai, Một Mảnh Đời Tị Nạn, kể về những ngày đầu mới tới nuớc Mỹ. Bài thứ ba: “Tôi Là Đốc Tờ Nail”. Sau đây là bài viết mới nhất.
Đây là bài Viết Về Nước Mỹ thứ năm của Lê Thị, trong số 7 bài tác giả đã liên tiếp gửi về cho toà báo. Trong số này, có 4 bài viết về đề tài đồng tính. Lê Thị -cư dân Chicago, 35 tuổi- với tài viết và sức viết mạnh mẽ khác thường, hiện là tác giả dẫn đầu số lượng người đọc Viết Về Nước Mỹ trong hơn hai tháng qua.
Tác giả là một huynh trưởng viết về nước Mỹ, thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết, vừa phải báo “tạm rút” năm nay. Điện thư của ông ngày 25 tháng 6, nguyên văn như sau:
Tác giả đã góp nhiều bài viết giá trị cho Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biên đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA.
"Hồi Ức Tháng Tư của Long Mỹ" là bài viết của Paul LongMy Choate, Đại Tá Hải Quân, một cấp chỉ huy trên Hàng Không Mẫu Hạm nguyên tử lớn nhất của Hoa Kỳ USS CARL VINSON (CVN-70). Đây là con tầu đã tung ra các đợt tấn công đầu tiên trên không ở Afghanistan sau biến cố 9/11 và cũng chính nó đem thi hài Osama Bin Laden thủy táng trên biển. Tháng Tư 2012, cũng con tầu này đã tiến vào Thái Bình Dương, thăm Úc, đánh dấu việc Hoa Kỳ chuyển trọng tâm chiến lược sang Á Châu.
Nhạc sĩ Cung Tiến