Hôm nay,  

Còn Chút Gì Để Nhớ

12/05/200100:00:00(Xem: 158064)
Bài tham dự số: 02-242-vb0512

Đặt chân trên đất Mỹ trong những ngày lập thu cuả tháng chín, khi khí trời mát dịu hòa lẫn với lá thu vàng lác đác trên phố vắng thênh thang.
Ngôi nhà buồn tẻ nằm gọn trong khu phố êm đềm quên thức giấc. Ngừơi đàn bà đó, ngồi ủ rũ bên khung cửa đã sờn bạc. Bà hầm hực bước lên lầu khi chúng tôi tươi cười vào nhà. Tiếng cửa chua chát va vào vách tường là tiếng chào đón mẹ con tôi ngày đầu tiên đặt chân vào xứ Mỹ.
Ba tôi cười nhợt nhạt trên vành môi khô héo, mẹ lặng lẽ đem hành lý vào một căn phòng thấp lè tè. Mùi hương thoang thoảng toả ra nhè nhẹ, nhưng cũng đủ làm mẹ con tôi tò mò tìm kiếm. Mắt mẹ xoáy vào trong chậu vành vành trắng phau nằm muộn màng bên góc phòng. Những mùi hương hờ hững và cách trang trí phòng thanh đạm đối với một con bé mười ba tuổi như tôi cũng thấy hay hay làm sao.
Thịt gà ở đây thơm phức, cắn một miếng mà vị ngọt bùi tê cả đầu lưỡi. Tôi ngấu nghiến trong giấc mơ thịt gà mà không hay biết rằng có sáu con mắt đang nhìn nhau bốc cháy. Tôi chợt ngừng lại và nhìn chăm chăm họ một cách ngơ ngác.
Không khí như một bãi tha ma, nơi những linh hồn cấu xé và thù hận lẫn nhau một cách xót xa, dù rằng không một lời nào vọt ra từ những vành môi xanh xao ấy. Ba lại mỉm cười, cái cười nhợt nhạt, bất lực mà tôi không thể quên được. Người đàn bà đó chợt đứng lên, nhìn đăm đăm vào hai mẹ con tôi rồi tự nhiên dọn dẹp tất cả, mặc dù tôi còn đang ngon miệng với đĩa đùi gà luộc.
Bầu không khí trở nên ê chề hơn, mẹ tôi kéo tôi vào phòng và bật khóc nức nở. Lệ từ trong khóe mắt quầng thâm sâu thẳm mà suốt bao năm trời mòn mỏi chờ ba tôi; tuôn ra từng giọt âm thầm trên đôi má hao gầy cuả mẹ.
Rồi từng ngày vẫn thế, chúng tôi sống trong sự lạnh nhạt cuả ba tôi và nước mắt thổn thức từng đêm của mẹ. Nhưng chỉ vẻn vẹn một tuần sau thôi, bầu không khí ảm đảm đã chấm dứt khi quần áo mẹ con tôi vô cớ bay ra đường. Lá vàng vô tình sao phủ đầy trên những kỷ niệm quê nhà giờ ngổn ngang trước sân. Tôi chẳng thèm khóc mà ngước lên nhìn người đàn bà đó mộ cách căm phẫn. Mẹ ôm chầm lấy tôi trong vòng tay yếu đuối. Tôi thét gào trong đau khổ nhưng gió buồn lùa qua cuốn đi hết những lời than khốn đốn đó.


Họ bước xuống bậc tam cấp và nhìn chúng tôi. Ba đứng đó và lại cái nhìn buồn nhợt nhạt. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt vô hồn cuả ông. Đó là cha tôi, người cha theo tôi biết, từng một thời oanh liệt oai vệ giưã sa trường, từng trải bao gian nan sóng gió trong cuộc đời. Vậy mà thực tế, ngay giữa nước Mỹ an bình này, ông chỉ còn là cái bóng bất lực, không thể giải quyết được chuyện riêng cuả gia đình ông. Ông đứng đó, lặng lẽ nhìn vợ và đứa con 13 tuổi của ông bị tống ra khỏi nhà.
. . .
Đến hôm nay đã là năm năm rồi. Tôi chuẩn bị vào đại học Y Khoa, và con người thì cũng thay đổi hoàn toàn, không còn mê thịt gà như trước nữa. Nếu bây giờ ai mà tặng tôi nguyên một trại gà, thì chưa kịp cảm ơn chắc tôi đã lăn đùng ra xỉu. Nhưng mẹ vẫn thế, vẫn âm thầm từng ngày trong cuộc sống, vẫn u buồn thơ thẩn bên chậu vành vành trắng phếu.
Hoa đã rụng từ mấy năm rồi cớ sao hương thơm còn vương vấn mãi không thôi, trời hết mưa cớ sao trời lại chưa quang đãng.
Một ngày tình cờ tôi gặp ba trên phố với người đàn bà đó. Môi ba run lên như muốn nói với tôi một điều gì mà hằng lâu lắm ba muốn nói. Thôi, tôi xin ba đừng nói. Năm năm rồi tôi không muốn nhớ dù rằng bây giờ tôi vẫn chưa thể nào quên. Tôi không trách ba đã xô đẩy cuộc đời mẹ tôi vào bóng tối. Tôi không trách ba đã phụ bạc mẹ tôi vì trời cho lắm kẻ phong lưu. Tôi xin cảm ơn ba đã cho mẹ con tôi biết thế nào là nước Mỹ văn minh, xa hoa và đầy khác biệt này; để tôi có dịp so sánh con người và con người với nhau.
Nhìn thấy lại ba tôi trên phố, những điều không muốn nhớ lại trở về day dứt tôi. Ông đã phủi tay với quá khứ, cái quá khứ đã tìm đường cho ông trốn khỏi xứ xở đoạ đày, đã chung tình chờ đợi ông bao nhiêu năm dài trong địa ngục.
Ông đã phủi tay với tôi, đã nhẫn tâm để mẹ con tôi bơ vơ nơi xứ lạ quê người. Nhưng ông vẫn là ba tôi, tuy không nuôi lớn và dạy dỗ tôi, nhưng cũng hình thành nên vóc dáng này.
Xin ba cứ tiếp tục đi trên con đường của ba. Nợ ba một ngày tôi sẽ trả. Còn cái mà ba nợ mẹ con tôi làm sao ba trả nổi.
Đâu đây, tôi như đang cảm thấy một đoá hoa vành vành chợt rụng giưã đêm khuya, với nụ cười nhợt nhạt của ba đón mẹ con tôi tới nước Mỹ hôm nào.

DƯƠNG HOÀNG YẾN

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,465,781
Tác giả tên thật là Tô vĩnh Phúc. Trước 1975, tốt nghiệp cử nhân Luật Khoa và Văn Khoa tại Sài Gòn. Định cư tại Sacramento, California từ 1986, học và làm nhiều ngành khác nhau. Hai tập thơ đã xuất bản: "Bên Bến Sông Buồn" (2011) và "Nắng Chiều Còn Vương" (2012).
Tác giả là một nhà báo quen biết tại Dallas, từng trong nhóm chủ biên nhiều tuần báo và tạp chí tại địa phương. Phan góp bài Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua, và vừa nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ 2013. Bài viết cuối năm của Phan là một chuyện tình oan nghiệt kéo dài từ thời học trò vượt biên ở quê nhà cho tới nhà tù trên đất Mỹ.
Tác giả thuộc lớp tuổi 60, định cư tại Mỹ từ 26 tháng Ba 1992, hiện là cư dân Cherry Hill, tiểu bang New Jersy. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là “Tháng Ba, Trời Đất Vào Xuân,” tự sự của người vợ người mẹ trong một gia đình H.O., tự sơ luợc về mình “22 năm dạy học trong nước, 22 năm làm “culi job” trên đất Mỹ. Sau đây là bài viết thứ mười của tác giả cho Viết Về Nước Mỹ năm thứ 15. Bài trích từ báo Xuân Việt Báo Tết Giáp Ngọ, đang phát hành khắp nơi.
Tác giả là một kỹ sư công chánh, cư dân Torrance, California, đã góp một số bài viết về nước Mỹ. Anh cũng đã du lịch nhiều nước và ghi lại trong ba quyển du ký với tựa đề Á Châu Quyến Rũ tập 1 & 2 và Đi Cruise Bắc Mỹ hiện có bán tại các nhà sách trong vùng Little Saigon. Việt Báo xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc. Dưới đây là bài viết mới nhất của tác giả về Tết ở Little Saigon/
Tác giả tên thật Trần Phương Ngôn, cho biết ông là thuyền nhân trên chiếc tàu vào loại lớn nhất, chở 246 người, con số đông nhất trong một chuyến vượt biển. Tác giả cũng đã sống ở trại tỵ nạn PFAC của Phi Luật Tân gần mười một năm và chỉ mới định cư tại Hoa Kỳ từ 2004. Hiện hành nghề Nail tại tiểu bang South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Bài viết mới nhất của Triều Phong là chuyện bàn thờ ngày giáp Tết.
Tác giả sinh năm 1962, tốt nghiệp Đại Học Mỹ Thuật năm 1988 khoa Đồ Họa tại Việt Nam, từng làm công việc thiết kế sáng tạo trong ngành quảng cáo. Đến Mỹ tháng Tư năm 2000, hiện là cư dân Waxahachie, Texas, đang làm việc trong phân xưởng in của một nhà máy in tại địa phương. Cô đã góp nhiều bài Viết Về Nước Mỹ. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả tự sơ lược tiểu sử: Sinh năm 1960 tại Quảng nam. Qua Mỹ tháng 9/2003. Hiện sống tại California. Tham dự Viết về nước Mỹ từ năm 2010 với bài “Căn Hộ Đầu Tiên Trên Đất Mỹ” ngay bài viết đầu, đã cho thấy cách viết thứ tự, tỉ mỉ, bồi hồi. Đó là tâm sự chuyện ngày tết. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết thêm.
Tác giả đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2001, và từ 8 năm qua, là thành viên Ban Tuyển Chọn giải thưởng Việt Báo. Sau đây là bài viết mới nhất của Trương Ngọc Bảo Xuân, kể về một cô bạn Mỹ làm nghề “mang bầu mướn, đẻ mướn”. Bái trích từ Báo xuân Việt Báo Tết Giáp Ngọ 2014, đang phát hành khắp nơi.
Với bài viết tựa đề “Viện Dưỡng lão và Viện Mồ Côi”, Trần Thiện Phi Hùng có tên trong danh sách nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2013. Tác giả cho biết ông nguyên là lính Hải Quân VNCH; 12 năm 4 tháng đúng, tính đến ngày 30 tháng Tư 75, tự lái tầu vượt biển năm 1982, hiện định cư tại Úc. Bài mơi nhất của ông, vẫn với chi tiết về nhà hộ sinh và viện dưỡng lão như từng kể, nhưng gần như quay một vòng 360 độ, biến thành một câu chuyện khác hẳn.
Orchid Thanh Lê sinh trưởng tại Sài Gòn, định cư tại Hoa Kỳ tháng 9 năm 1997. Hiện là Phó Giáo Sư Tiến Sĩ tại Viện Nghiên Cứu Ngôn Ngữ Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Monterey, California.
Nhạc sĩ Cung Tiến