Hôm nay,  

Một Nét Trời Lá Bay

22/05/200100:00:00(Xem: 172710)
Bài tham dự số: 02-251-vb0522


Chẳng nhớ nhà thơ nào đã xem những làn hương là con của cây và lá là em của gió.
Mặt đất mãi thầm mong xanh tươi mát rượi yên bình. Vì vậy, ban đêm khi con người vào giấc ngủ, tiếng cười cũng đi ngủ theo, loài cây mới mở cửa, thả đàn con mình rong chơi theo chị gió vẫy gọi đón chờ. Cứ thế, những làn hương lâng lâng tỏa khắp ngàn phương. Mãi lúc gần, xa dồn dập tiếng gà, hương đêm tạm biệt chị gió hiền chắp cánh cho mình bay theo, để trở về nép khẽ vào mẹ cây, im lìm trong lá, khiêm tốn và nhẫn nại đợi chờ đứa em sinh ra từ búp non, nách lá...sẽ thay mình nương bóng chị thân thương, dệt thảm gấm hoa thơm ngát cho đời....
Nhớ tích xưa Đào Tiềm trồng hoa cúc và yêu hoa nhất mực, thậm chí luyến thương lá cúc khô mà vẫn bám cành ” diệp bất ly thân” không chịu rụng! Tất cả nói lên sự thủy chung, tình nghĩa gắn bó suốt đời của mỗi cá nhân với nguồn cội sinh thành, đất mẹ vườn cha máu thịt.
Cùng lúc, liên tưởng những dòng tin tổng hợp nhiều trang sách báo Châu Âu đã đọc, ngày nào nổi bật hàng chữ: “Con ơi! chờ mẹ...” mà nghe như tiếng thét nảo nùng ào ập mãi dư vang. Các bà già người Pháp, từ viện dưỡng lão Seine et Marne không xa thủ đô Paris, viện Guillestre vùng Alpes... run rẩy gọi con biền biệt lâu ngày ghé thăm khoảnh khắc. Những người con trưởng thành, lập gia đình, đưa cha mẹ già vào nơi khoanh vùng tỉnh yên biệt lập. Cái thông lệ phổ biến trên mảnh đất của Victor Hugo bất hủ với ánh mắt của lương tri xót xa những kẻ khốn cùng!
Dường những dấu ấn của năm tháng khôn cùng, những trăn trở của đời người, đang bằn bặt âm thanh trong một thoáng. Những xúc cảm đột hiện thất bất ngờ, rất giản dị chỉ có điều day dứt đến thẩn thờ. Bôn ba trôi dạt khắp nơi, lúc sóng gió, lúc lặng lờ ai tránh khỏi đôi khi tự nhìn với cái nhìn dòng chảy thời qua.
Hành trình từ quá khứ thường khởi điểm một hiện tượng gợi cảm, một ấn tượng kích động thu hút. Người Việt định cư nước Mỹ, hay cánh chim di cuối đất cùng trời, góc biển chân mây nào trên hoàn vũ, tất khó quên hình ảnh quê xưa. Tiếng mẹ đêm đêm trên võng kẻo kẹt đều đều, dạt dào làn ru nhè nhẹ...” à ơi, nghĩa mẹ, công cha...” câu hát ru ngàn đời giàu chất nhân văn như cứa vào lòng một lưỡi dao không đau mà rát buốt đến hóa thân vết khắc sâu hằn. Có những bà mẹ quê xa về phố thăm con học trọ, không quên đem theo nắm cá khô nướng sẳn, giỏ trái cây vườn. Đó là giờ phút của con nôn nao về con đường phía trước với giọt nước mắt sau lưng. Một chuyến tàu trở về quê ngày Tết, ai không nghe trong gió thoảng một làn hương mong manh, mơ hồ nhưng quen thuộc" mơ hồ như dương một làn hương. Hương nồng của bùn đất, thơm ngát mùi cỏ lá đồng xanh, đường làng cát bỏng nắng lòa, những ngôi nhà mái rạ, vách đất đơn sơ dưới bóng vườn dừa, những kiến trúc Việt Nam thuần phác.
Sống thành phố quen rồi, đi về giữa ồn ả mê say của nhịp điệu cuộc sống, quen hít thở bụi bậm khói xe đô thị, thậm chí quên dành cho mình một khoảng trong xanh bao la hít thở khí trời. Khó quên chăng là nồi đất nấu cơm thơm hương gạo nếp vùi trong than bếp rực hồng. Lửa của lá rừng, rơm rạ, cành khô... tất thảy dường như từ đất. Khói bếp quyện hòa mùi thơm của những bạch đàn, bông khuynh diệp, đun rơm đang cháy. Và hương khói nhà xưa réo gọi trong không gian của nồi điện, bếp gas, của tiện nghi hiện đại, một tiếng gọi thất thanh lắng sâu trong âm ỷ đã bao giờ!


Toàn thể đã vào huyền thoại, trở thành ẩn ngữ vĩnh hằng của thực thể cố hương qua ca dao, giọt nhạc, tiếng hát, cung đàn. Dẫu là xưa củ, vẫn nguyên vẹn lời nói của quả tim người thởu nào, mặc cho cuộc đời là cả một dặm dài đường cao tốc không có phút dừng chân...
Giật mình đến bắn cả người lên! ...đang ở nước Mỹ kia mà! Lẩn thẩn chăng" Không, chính đang ở đây, ngay mảnh đất Taxas của Hợp Chủng quốc Hoa kỳ, giữa một xã hội có nét độc đáo sinh hoạt, nếu không nói đặc thù cố hữu. Một khoảng cách tình cảm biểu hiện hằng ngày giữa con cái trưởng thành và nơi sinh trưởng. Qua đó ông, bà, cha, mẹ già mặc nhiên không nơi nương tựa.
Trường học Mỹ không có môn luân lý hay đức dục, tức hướng về văn hóa nhân bản và dĩ nhiên văn hóa truyền thống hẳn là không. Học đường Mỹ nói chung chú trọng đào tạo nghề nghiệp hơn là giáo dục hiểu theo nghĩa rộng. Đại học Mỹ nhào nặn chuyên gia tầm cở nghành nghề, nhưng hành trang trí thức giới trẻ nhẹ mặt văn hóa. Những vấn đề nhức nhối trong cuộc sống ít được mổ xẻ. Nạn thiếu niên phạm pháp mãi còn, thưa dần những phim ảnh tình cảm, tâm lý xã hội mang ý nghĩa cao đẹp, nhường chỗ cho thể loại nặng giải trí và thương mại, và khán giả cũng đã quá mệt mỏi với những phim có sự can thiệp của kỷ xảo vi tính.
Ám ảnh cỏi trời lá rụng về cội quê xưa. Nhiều khi thức dậy, chợt ngồi bó gối và tự vấn đến vu vơ... Sao ở đây không là dòng sông mát đục qua làng, trước mặt không là vườn xanh, lũy tre, khóm trúc mà chỉ là nhà nối nhà với khói bụi, tiếng ồn" Sao không còn cha, mẹ bên mình" Những tiềm thức lim dim sau nhiều thời điểm dằn dặt mưu sinh đã phủ dày như bao lớp phù sa nâu mịn vẫn thì thào nhắc lại suối buồm xưa...
Một thoáng an ủi khi nhìn lên bàn thờ gia tiên, bóng mẹ nhìn mĩm cười từ di ảnh... ngọn đèn cầy chia xẻ lung linh... và bất giác, nghe ran ran dịu dàng âm hưởng giai thoại nào hồi bé: Một vị linh mục đến thăm lớp học giáo xứ, một học sinh đứng lên hỏi: “Thưa cha, khi cha mất, lên thiên đàng, cha sẽ gặp mẹ con không"” Con tim thánh thiện như ngừng đập. Ông chỉ nghĩ duy nhất một điều: “Đừng để nổi xúc động này tan biến, một cậu bé hỏi về mẹ, hẳn sự kiện này vừa xảy đến, hoặc là điều em bé quan tâm nhất trên đời. Ông thấy cần phải nói điều gì đó và ông nghe chính giọng nói mình cất lên: ”Cha không chắc người mà ông gặp có phải là mẹ con không, nhưng nếu phải thì đích xác đó là thiên thần đẹp nhất ở thiên đàng.” Nụ cười xuất hiện trên khuôn mặt em khiến ông hiểu rằng lời nói của mình đã làm em bé hài lòng. Mà câu trả lời ấy từ cỏi nào đến với ông cũng không biết nữa. Nhưng ông tin rằng phải có sự giúp đở nào đó từ vị thiên thần đẹp nhất kia.
Lang thang trên đồi nắng Taxas, cái nắng gầy chiều tháng chạp, có thể vết tích trầm mặc ưu tư cứ cấu xé dày vò, cứ tra vấn trên cát, cứ xoắn tít lấy nhau xa hút tầm nhìn. Đằng tây, những cụm mây nhởn nhơ lấp ló chân trời tạc hình góc trời quê xưa những hình thù trăn trở, dấu tình cội nguồn dội lại từ xa...Tháng chạp, tháng chạp cội nguồn dồn về từ cấp số nhân.
Nước Mỹ, lá xanh rơi và bay xa...lá vàng úa trên cành với gốc già thầm lặng. Một nét trời riêng cá biệt dị thường, chợt nhớ danh ngôn của Tổng Thống Thomas Jefferson, tác giả Tuyên Ngôn Độc Lập Mỹ: ”Những lúc sung sướng nhất đời tôi thật ngắn ngủi đó là tôi đã được sống giữa tổ ấm gia đình”.

Lê Triêm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 864,001,913
Tác giả một mình vượt biển giữa thập niên 80’ khi còn tuổi học trò. Dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, cô nhận giải danh dự 2001. Bốn năm sau, cô nhận thêm giải vinh danh tác phẩm 2005 với bài viết “Tháng Tư, Còn Đó Ngậm Ngùi,”
Tác giả sinh năm 1950, đến Mỹ năm 1994 diện tị nạn chính trị theo chồng, hiện sống ở Bắc Cali. Tốt nghiệp đại học ngành Early Childhood Education (giáo dục nhi đồng) tại Chapman University miền Nam California hồi tháng 5,
Tác giả tên thật Vũ Văn Cẩm, vượt biển năm 1981. Đến Mỹ 1982, hiện làm việc và an cư tại Oklahoma từ 2003.
Tác giả sinh năm1949, định cư tại Mỹ theo diện HO năm 1991. Nghề nghiệp trước 75: dạy học. Công việc làm ở Mỹ: du lịch. Hiện đã hưu trí và là cư dân vùng Little Saigon, Westminster, California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà năm 2013 là "Kock and Me / Vi trùng lao và Tôi." Sau đây là bài viết thứ sáu của Bà.
Tác giả định cư tại Mỹ năm 2000, hiện là cư dân Boston và làm việc trong một bệnh viện của tập đoàn Partners. Với bài "Đoá Hồng Bạch" tưởng niệm một nữ sĩ quan Mỹ gốc Việt hy sinh tại chiến trường Trung Đông, Nhất Chi Mai nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2012. Bài viết mới của cô kể về sức mạnh của Boston sau vụ khủng bố nổ bom ngày Marathon 15 tháng Tư 2013.
Tác giả định cư tại Seattle từ 1975, đã hồi hưu sau khi phục vụ trong ngành xã hội tiểu bang nhiều năm. Bài viết Về Nước Mỹ đầu tiên của Nguyễn Đặng Bắc Ninh cho thấy cách viết chừng mực mà sống động. Đây là “chuyện thật trong gia đình về Mẹ Chồng Nàng Dâu trên đất Mỹ,”
Tác giả định cư tại Mỹ từ 1992, hiện là cư dân Cherry Hill, tiểu bang New Jersy. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của Song Lam là “Tháng Ba, Trời Đất Vào Xuân,” tự sự của người vợ người mẹ trong một gia đình H.O. 38 năm sau Tháng Tư 1975.
Sáu năm trước, 2005, có bài Viết Về Nước Mỹ mang tên “Con Tàu Ma” của “Người Giấu Tên” được phổ biến lần đầu, kể về chiếc tầu sắt Panama đậu ngoài khơi để công an CSVN ở Bến Tre đưa người lên đi “bán chính thức”.
Tác giả là cư dân North Carolina, chỉ vừa định cư tại Mỹ hai năm sáu tháng. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông kể về hoàn cảnh một người đến Mỹ khi tuổi đã 60, thân mang bệnh tật, tự chọn cho mình cách sống theo kiểu một loài chim đầm lầy vùng sông Nile Ai Cập,
Tác giả là kỹ sư cơ khí của hãng máy bay Beechcraft tại Wichita, Kansas. Ông Tân Ngố nói, “Tay này là dân cử gốc Kinh 5, mới 52 tuổi xuân, được dân đồng kinh bầu là Hội phó Hội Sợ Vợ miền Trung tây Hoa Kỳ. Bài viết là du ký quanh nước Mỹ của gia đình Ông Phó.
Nhạc sĩ Cung Tiến