Hôm nay,  

Sức Sống

05/06/200100:00:00(Xem: 173955)
Bài tham dự số: 02-263-vb0605

Nước Mỹ không phải là thiên đường, bạn bè tôi ai cũng nói. Tôi cũng hiểu, ở đâu cũng phải làm việc để sống. Sau hai mươi mấy năm tồn tại được trên mảnh đất miền Nam Việt Nam, trước ngày ra đi, tôi tin rằng cuộc đời mới đầy xa lạ ở Mỹ chắc sẽ không gây khó khăn nhiều.

Những ngày tháng tư tháng năm không nhớ rõ, Eve nói bà đã phải bay từ Georgia đến Travis, California, để nhìn xác John con nằm trong chiếc quan tài kim loại. Eve kể, thằng John con và một số bạn bè đã cùng nhau tình nguyện sang Việt Nam để (Eve ngừng một chút) … ngăn chận sự xâm lăng của Cộng Sản.
Bà Eve cho tôi xem xấp thư của con gửi về từ Việt Nam và ảnh của Ann, hôn thê của John con. Trong câu chuyện của Eve như "mắng vốn" ... nhưng tôi tin Eve không có ý rằng người Việt được sang Mỹ là nhờ hơn năm chục ngàn người Mỹ chết vì chiến tranh tại miền Nam Việt Nam.
Thật ra, Eve may mắn còn thấy được mặt John con, tôi thì không. Tháng 1 năm 1982, trước khi vượt biển với mấy anh bạn, anh hai tôi chỉ dặn, ở nhà ráng lo cho ba. Chiếc ghe chở anh, bác sĩ Quân y Bùi Thế Cầu, Liên đoàn 33 Biệt Động Quân, QLVNCH, và những người bạn đã không bao giờ đến được nơi mà bao nhiêu người ở lại đã van vái, đã cầu nguyện.
Có lẽ cùng có sự mất mát nên Eve tỏ ra rất thông cảm với hoàn cảnh của tôi. Riêng tôi cũng không muốn so sánh những bất hạnh giữa tôi và người láng giềng đầu tiên, đã chỉ dẫn tôi từng chút trong buổi đầu buộc phải làm quen với sinh hoạt của một xã hội mà người dân được cho là có thu nhập cao nhất thế giới.
Ban đầu ông ngoại hai đứa nhỏ muốn tôi cứ ở Việt Nam giữ căn nhà để ông về chơi mỗi mùa Đông, để bà con về thăm Sài Gòn được chỗ ở có không khí gia đình … bù lại, ông sẽ nói với các anh chị bên nầy gửi tiền về thêm một chút. Nhưng người chị kế đầy quyền hành của gia đình lại muốn tôi sang để đoàn tụ, để tụi nhỏ khỏi phải đi lính Việt Cộng, để có cơ hội xây dựng cuộc sống. Đối với tôi, tương lai hai đứa nhỏ luôn nặng trĩu trong lòng, cộng với nhiều băn khoăn về một xã hội tranh tối tranh sáng không có gì bảo đảm cho ngày mai. Thật lòng, tôi muốn thay đổi môi trường sống từ lâu. Tôi cũng từng ao ước được ra khỏi nơi đã gây ra sự thiệt hại cho đời sống tình cảm của tôi! Và, sống độc lập, thoát khỏi sự mặc cảm là gánh nặng tài chánh cho người thân đang sống ở Mỹ!
Vợ chồng anh Hương tỏ vẻ ái ngại về sức chịu đựng của tôi. Cái lạnh khắc nghiệt ở Boston, những cái nhìn lạnh lẽo của người thân bên nhà chồng của chị tôi, công việc tạm bợ tại cửa hàng bán hàng lưu niệm với đồng lương không rõ ràng, mỗi sáng lén mở màn cửa nhìn theo hai thằng nhỏ lặn lội trong tuyết dày đến trạm xe bus, đêm lạnh trong căn phòng ở nhờ nhưng thiếu heater... tôi bắt gặp mình chảy nước mắt mỗi đêm. Tôi bắt đầu tự hỏi về sự tự tin của mình trước một loạt vấn đề thực tế: phải có bằng lái xe, phải có thêm khả năng Anh Ngữ, phải có việc làm ổn định, phải có chỗ ở độc lập .v.v. Tai hại hơn, qua nhiều năm sống khá vất vả ở Việt Nam, chứng bệnh phong thấp được thời tiết Boston giúp thêm, hành hạ tôi theo từng bước chân trên đường đến cửa hàng.
Đúng lúc đó, N. cô em họ có lòng nhân ái đang sống ở Milpitas, California, nhân chuyến dự hội thảo tại Boston, đã mở đường cho tôi về Cali. Vợ chồng N. sponsor thuê apartment, lo thủ tục medical, trợ cấp, lo thủ tục chuyển trường, nhập học cho hai thằng nhỏ, một gia đình bạn hữu từng chịu ơn ba tôi giúp tôi tìm việc làm.v.v. Giờ nầy nhắc lại tôi thấy, chỉ cần vài sự hỗ trợ của người thân, của bạn bè, thì sức bật để sống vốn có trong người phụ nữ Việt Nam sẽ được dịp đi lên.
Anh H. hay than thở về cuộc sống công nghiệp ở Mỹ không có tình người. Dường như anh muốn trách cứ về sự lạnh nhạt đến vô tình của những người đồng hương nhanh chân đến được Mỹ trước gia đình anh. Riêng tôi tin rằng, ở một quốc gia được cho là đất cơ hội, thì người đến sau không có nghĩa là chậm tiến, thiếu kiến thức, hoặc sẽ mãi mãi nghèo khổ...


Bà Louis, cũng là mẹ đở đầu cho hai con tôi, đã từng nhận xét, thế hệ của tôi, nói chung, đến Mỹ khá muộn để bắt đầu mọi chuyện bằng con số không, nên đừng lấy làm lạ khi mọi người đều bị cuốn hút vào chuyện làm và để dành tiền để đuổi theo sự ước muốn. Bà khuyên tôi quên đi mặc cảm là người đến sau. Người hàng xóm tốt bụng nói rằng, phụ nữ Việt Nam không mấy khó đạt được sự thành công trên đất Mỹ vì rất khéo tay, chăm chỉ.
Tôi nhìn lại những gì đã biết sau gần hai năm trên đất Mỹ, trong đó, chỉ riêng sự vật lộn với cuộc sống hàng ngày cũng đủ làm cho người ta thấm mệt.
Anh L. làm nghề catering; trong suốt 15 năm, mỗi ngày anh dậy từ 3 giờ sáng để chuẩn bị xe, load hàng, chị bận rộn với menu thức ăn, nước uống, lò nấu... kế đó, anh chị dong ruỗi đến hơn mười điểm bán hàng khác nhau. Ngày làm việc hơn mười hai tiếng. Mệt quá không kịp khoẻ để nói chuyện với con cái.
Chị P. làm việc ở hãng điện tử hơn mười năm; ngày đúng tám tiếng lăn lộn với mấy con chip, board, cable .. động tác lập đi lập lại phát chán đến nỗi lầm lì. Hai ngày cuối tuần bận rộn với việc giặt giũ, rửa xe .. xem tivi, shopping .. ăn uống qua loa .. còn thì giờ thì ngủ cho lại sức. Nhìn chung, ai cũng gắn liền mình với công việc được tính ra đô la mỗi giờ. Tôi cũng không hưởng được ngoại lệ; do thu nhập không cao nên tôi phải tiếc từng giờ, tìm giờ phụ trội, bỏ tiêu chuẩn nghỉ thường niên .. thậm chí có ngày hơi mệt cũng ráng "gồng mình" đến sở.
Nước Mỹ mở rộng cánh cửa một cách đầy nguyên tắc, nhưng tôi lại được thừa hưởng sức chịu đựng của phụ nữ Việt Nam. Từng ngày, tôi học thêm sự nhẫn nại để đương đầu với những khó khăn trong môi trường sống đang quen dần. Tôi đến lớp ESL để tăng khả năng Anh Ngữ, biết thêm cách giao tiếp. Bạn người Việt cùng sở giúp tôi ghi danh học thêm về nghiệp vụ. Tôi biết ơn Ban Giám Đốc Independent High School, Rancho Middle School, tận tình giúp đở hai đứa con tôi biết cách học ở trường Mỹ.
Trong sinh hoạt gia đình, thỉnh thoảng trong buổi ăn tối, tôi nghe hai thằng nhỏ nói về chuyện kỳ thị chủng tộc một cách vô tư. Tôi nhìn được niềm tin trong mắt của hai đứa khi chúng khẳng định về tương lai vì đang được sống trên một đất nước có nền giáo dục tốt nhất thế giới, một nền điện ảnh hay nhất thế giới. Tuy chúng có ít bạn hơn hồi ở Việt Nam nhưng bù lại cả hai hay chơi game, học thêm Anh Ngữ.
Ở Mỹ tôi không bị lo lắng vì cuộc sống như hồi còn ở Việt Nam. Bà giáo Penelope, Adults High School hướng dẫn tôi về những quyền lợi xã hội tôi và các con được hưởng: medical, trợ cấp thất nghiệp, học nghề miễn phí, nhà thuê cho người có thu nhập thấp, con tôi được vay tiền chính phủ khi vào college, và .. quyền được sống bình đẳng.
Thời gian hội nhập trôi qua dần trở thành bình thường như hơi thở. Ba mẹ con tôi vẫn dùng đũa ăn cơm. Hai thằng nhỏ vẫn thích các món ăn do mẹ nấu: canh chua, cá kho, thịt kho nước dừa .. thằng nhỏ nói, ngày nào ở trường cũng có hamburger, sữa..; tôi nhớ, đó là những món ăn xa xỉ mà các con tôi chỉ được ăn vào ngày lãnh lương của tôi hồi còn ở Việt Nam. Thằng nhỏ có ý muốn, lớn lên sẽ trở về Việt Nam để làm ăn và giúp cho bạn bè ở quê hương. Thằng lớn im lặng khi được hỏi mai mốt ở hay về (nhưng tôi tin nó không bao giờ quên mấy năm học bán trú thiếu thốn chữ nghĩa, thiếu thốn tình cảm, nhớ đám học trò cùng trường hút xike, nhớ đến phát sợ vì suýt chút nữa bị đi "nghĩa vụ quân sự" .. ). Tôi đã thấy hai đứa bàn nhau soạn quần áo cũ tặng donation. Có lần trước cửa hàng Target, thằng anh ngả mũ chào một người Mỹ lớn tuổi, mang bảng Viet veteran, rồi cung kính tặng "ông ấy" một đồng do thằng em đưa. Tôi nghe chúng muốn gộp tiền dành dụm mua quà gửi cho mấy đứa bạn nghèo trong xóm cũ.
Tôi vẫn thường nghe chúng so sánh những cái tốt cái xấu về những ngôi trường đã học qua. Đi học bằng xe đạp hay đến trường bằng bus hay thỉnh thoảng được mẹ chở đi bằng xe hơi, cả hai đều tỏ ra trân trọng. Hồi ở Việt Nam, những điều gì có liên quan đến tình cảm mà tôi không dám bộc lộ, thì nay ở Mỹ, chúng thay tôi làm. Trước mắt tôi, hai thằng nhỏ bây giờ sẽ trở thành hai công dân Mỹ theo thời hạn, nhưng hai trái tim của con tôi vẫn nồng nàn tính cách người Việt.

Bùi Aùnh Tuyết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 866,655,023
Tác giả sinh năm 1957, cư dân Santa Ana, nghề nghiệp: làm nail. Loạt bài viết về nước Mỹ gần đây của tác giả gồm: Bỏ Gì Thì Bỏ; Ước Vọng Của Tin, thể hiện tình thương yêu và ý chí của một gia đình Việt Nam trên đất Mỹ. Bài gần nhất : Đời Em. Sau đây là bài viết mới nhất. Bài viết mới là chuyện về một trường hợp lấy chồng việt kiều.
Tác giả tên thật: Nông Phiên; Sinh năm 1965 tại Sài gòn. Giáo viên Sư phạm Kỹ Thuật. Công việc hiện tại: Electro-mechanic Technician. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của Phi Yên là một tự sự vui vẻ, linh hoạt về công việc lưu trữ ngũ cốc tại Mỹ, lần đầu được đề cập bởi người gốc Việt. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết thêm.
Tác giả là một cựu du học sinh Nhựt Bổn, từng nhập Nhựt tịch, và có tên Nhựt là Yasushi Takasaki. Trước 30 Tháng Tư 1975, ông là chuyên viên Văn phòng Thống Đốc Ngân Hàng Quốc Gia VNCH, hiện cùng gia đình tái định cư tại Vancouver, Canada, từng làm Telemarketer của 4 Hảng Điện thoại (2 Mỹ, 2 Canada).
Tác giả tên thật là Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. 1, hiện làm việc tại học khu Ocean View. Ông đã góp nhiều bài viết về nước Mỹ, bài nào cũng cho thấy tấm lòng, tình đồng đội và sự lạc quan, yêu đời. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả cho biết ông đã tham dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên với một số bài viết về đề tài Du Lịch Nước Mỹ hoặc Trại Hè. Sau hơn 10 năm, ông trở lại với giải VVNM, với bút hiệu mới là Phạm Thái. Sau đây là bài viết thứ tư của ông trong năm.
Tác giả sinh tháng 10/1939. Hiện là cư dân Houston, Texas.Trước 1975, là sĩ quan QLVNCH. Bị băt tù binh ngày 16/04/1975 tại mặt trận Phan-rang. Ra tù 1984.Vượt biên 1986. Bị băt giam ở nông trường dừa 30/04, tỉnh Trà-vinh.
Bốn chữ QPQH trong tựa đề là viết tắt của “Quang Phục Quê Hương”, từng được nhiềungười Việt hải ngoại nhắc đến. Bài viết của Christin Nguyễn lần này là một truyện giả tưởng dựa trên ước mơ ấy. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết thêm.
Giải thưởng Việt Báo Viết Về Nước Mỹ bắt đầu năm Canh Thìn 2000. Ngay năm đầu, có tác giả Nguyễn Văn ở Chicago tham dự với bài “Dưới Mái Trường Senn.”
Trở về cuộc sống thường nhật sau 3 ngày đến Washington D.C. hòa vào dòng người vào Tòa Bạch Ốc và Quốc Hội Hoa Kỳ để đưa thỉnh nguyện thư đòi hỏi Nhân Quyền cho Việt Nam, trong lòng tôi hòa lẫn nhiều cảm xúc.
Tác giả là cư dân Vancouver. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là “Bóng Quê Hương,” viết về mảnh vườn rau Việt trong căn nhà ở mướn, đậm đà. Bài viết thứ hai của tác giả là những kỷ niệm vui về nơi làm việc đầu tiên trên đất Mỹ tại Valassis, Colorado.
Nhạc sĩ Cung Tiến