Hôm nay,  

Father’s Day 2001: Ba Tôi

17/06/200100:00:00(Xem: 188101)
Bài tham dự số: 02-274-VB 0618


Cách đây bốn tháng, lúc cậu Bốn hỏi tôi là nếu ngày mai, cậu sẽ giành một vài giây phút ghi nhớ, liệu tôi có thể đóng góp vài giòng trước giờ tiễn đưa ba tôi. Tôi trả lời ngay là vâng, tôi sẽ làm được. Bài viết hôm nay ghi lại những gì tôi đọc hôm ấy.

Viết về ba tôi thì rất đơn giản vì ba tôi có một cuộc sống rất đơn giản, ba tôi rất ít khi - gần như là không bao giờ , nói về mình. Có chăng là trong những giây phút yêu đời, ba tôi khoe là con tôi vừa học xong ngành này, vừa hoàn tất học trình nọ, thế thôi !

Quê tôi đất Tây Sơn, Bình Định, tôi lớn lên tại phố quận, một thị trấn nhỏ hắt hiu của xứ nghèo miền Trung. Từ nhà tôi đi qua sông Côn chừng một cây số về hướng Bắc là lăng Tây Sơn, nơi ba anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ đã đem quê tôi vào những trang sử anh hùng với lời thơ ngày nay còn nhắc nhở:

Non Tây phất ngọn cờ đào,
Giúp dân dựng nước biết bao công trình.

Cách nhà tôi không bao xa về hướng Đông, nằm cạnh quốc lộ 19 là “làng” Phú Xuân, quê nhà của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Từ gò tập trận của nữ tướng Bùi Thị Xuân đi năm cây số về hướng Tây là lăng Mai Xuân Thưởng. Nơi an nghỉ của người anh hùng chống Pháp của quê tôi nằm ở lưng chừng đồi nhìn ra hai địa điểm chiến lược là quốc lộ 19 và giòng sông Côn.

Ba tôi làm Hiệu Trưởng trường Tiểu Học Bình Tường, một làng nhỏ nằm tựa dãy Trường Sơn, cạnh quốc lộ 19 cách nhà tôi chừng ba cây số về hướng Tây, Ba tôi rất yêu việc làm và tin tưởng tuyệt đối vào giá trị của giáo dục. Tôi biết được điều này vì lúc còn phải dạy học trò, thỉnh thoảng nếu lớp học thiếu hụt một vài văn phòng phẩm nho nhỏ như phấn viết bảng, hoặc giấy mực thì ba tôi lấy hàng tồn kho từ trong tiệm sách của gia đình mang đến trường. Nếu những ngày sau đó má tôi có hỏi thăm món nợ nhỏ này của trường thì ba tôi chỉ than khéo là tội nhiệp cho bọn học trò nghèo !

Kỷ niệm sâu đậm nhất về sự yêu nghề, tình thương con của ba tôi đến với tôi vào những ngày cuối của tháng Tư năm 1975. Hôm đó là ngày 22, tôi có cơ hội đi theo gia đình cậu Bốn tôi để đi vào phi trường Tân Sơn Nhất để ra đi. Má tôi khóc sụt sùi khi xếp quần áo vào túi cho tôi. Trong giờ phút căng thẳng ấy ba tôi ngập ngừng hỏi tôi một câu hỏi mà tôi sẽ nhớ suốt đời:
- Như vậy là mầy bỏ công việc dạy học hã "
Lúc ấy tôi làm phụ khảo cho một trường đại học nhỏ ở Sài Gòn. Câu nói trên của ba tôi là nguyên nhân của quyết định ở lại của tôi hôm ấy.

Cũng như đa số những nhà giáo được đào tạo với những giá trị cổ truyền vào thời ấy, ba tôi cố gắng giữ một khoảng cách với học trò, con cái và gia đình. Ba tôi không nựng nịu, buông lời thương yêu con nhỏ nhưng những nghĩa cử trong cuộc đời cho thấy ba tôi đã gần như hy sinh tất cả để chuẩn bị cho chúng tôi vào đời với một vốn liếng giáo dục tốt nhất.
Vài hôm sau khi tôi quyết định hủy bỏ chuyến ra đi mà tôi đã kể ở trên, gia đình tôi thúc đẩy tôi tìm cách ra đi. Ngồi xếp hàng sáu tiếng đồng hồ trong phi trường Tân Sơn Nhứt để đợi lên trực thăng, phút cuối lại bị bỏ rơi. Cuối cùng, tôi và cậu em trai rời Sài Gòn sáng hôm sau trong những giây phút cuối của cuộc chiến, vào ngày 30 tháng Tư trên tàu Trường Xuân.

Sau hai tháng lánh nạn, gia đình tôi từ Sài Gòn về lại quê nhà với hai cô con gái đã trưởng thành và sáu con còn nhỏ, và mọi sự phải bắt đầu lại từ đầu. Tài sản, máy móc, xe cộ đã tan biến trong cuộc chạy trốn, gia đình tôi trở về để chứng kiến cái tài sản cuối cùng, những quyển sách tồn kho của tiệm sách, những quyển sách không còn dùng hoặc vẫn còn là sách giáo khoa ở tại các trường địa phương đã được những người của chế độ mới chiếu cố và ra lệnh thiêu hủy. Những năm đầu là những năm hết sức cơ cực. Con gái và con trai nhỏ của ông hiệu trưởng và bà chủ tiệm đánh máy ngày nào giờ phải mang cái giỏ nhỏ ra chợ để buôn bán để phụ gia đình kiếm miếng ăn, có em chỉ vẹn chín tuổi. Khó khăn thì khó khăn nhưng ba tôi vẫn cố gắng cho các em tôi tiếp tuc sự học sau khi hoàn tất bậc trung học - nhưng cánh cửa học đường của chế độ “mới” đã đóng chặt trước lối đi của những cô em có anh em “chạy theo đế quốc”. Không có được sự giáo dục qua học đường, các em tôi được hổ trợ trong những hình thức học kèm qua hội họa, âm nhạc... Tiêu chuẩn của ba tôi vẫn là tìm thầy hay nhất để các em tôi học.

Tám năm sau, trong thời gian chờ đợi đoàn tụ gia đình, tôi nhận được những lá thư từ má tôi và em tôi cho biết là ba tôi dạo này thay đổi, hàng ngày ba uống rượu và gây gỗ vơi gia đình. Má tôi và nhất là em kế tôi hỏi tôi có cách gì giúp gia đình tôi ra khỏi tình trạng bế tắc hay không " Tôi ngồi xuống viết cho ba tôi một lá thơ trên hai trang giấy nhỏ, tôi không an ủi về chuyện gia đình tôi đã phủi tay vì sự lường gạt trong chương trình ra đi bán chính thức. Năm 1975 là lần thứ hai mà gia đình tôi phải làm lại từ đầu, nguyên nhân của sự thất vọng là niềm hy vọng về cơ hội học tập của các em tôi đã đi vào chỗ bế tắc.

Trên hai trang giấy tôi thưa với ba tôi là gia đình tôi sẽ đoàn tụ, không chóng thì chầy. Rồi ngày ấy các em tôi sẽ có cơ hội được cắp sách đến trường ở một nơi có một nền giáo dục đại học tân tiến nhất thế giới. Tôi cũng trình bày là phẩm chất của giáo dục trung hoc ở Việt Nam rất cao, nhất là ở các trường công lập. Những học sinh tốt nghiệp vào hạng trung bình của các trường này sẽ thấy con đường đại học của Hoa Kỳ rất phẳng phiêu, và dĩ nhiên với các em tôi nó còn dễ đến thế nào! Cái khó nếu có chăng là giữ cho tâm hồn các em bình thản để đợi ngày cho các em quay lại học đường.

Sau đó tôi nhận được thư má tôi gởi qua cho biết rằng ba tôi chấm dứt uống rượu ngay sau khi đọc thư tôi. Và mãi cho đến những ngày cuối cùng của cuộc đời, một giọt rượu, giọt bia không bao giờ đến đầu môi của ba tôi.

Ba má tôi và tám em qua Hoa Kỳ trên diện đoàn tụ gia đình vào năm 1985, ba năm sau đó, ba tôi lại có dịp chứng tỏ sự hy sinh của mình cho gia đình. Lúc đó vào dịp Giáng Sinh, ba tôi hỏi trong buổi tiệc gia đình là ai có muốn quà gì từ ba tôi hay không " Em trai tôi trả lời là cái điếu thuốc của ba ! Ba tôi bỏ hẳn hút thuốc từ hôm ấy.

Ba tôi ăn bận đơn giản, không thích đi du lịch, ngồi hàng, ngồi quán. Ba luôn luôn bảo rằng: “ Không nơi nào đẹp bằng nhà mình cả .”

Hai năm trước đây bác sĩ khám phá ra ba tôi bị bệnh đau gan, ngày chờ lên bàn giải phẩu, em gái út của tôi chạy vào báo cho ba tôi một tin rất vui cho ba tôi lúc bấy giờ là cô ta đã có văn bằng hành nghề để đi theo nghề dạy học của ba tôi. Niềm ưu tư cuối cùng của ba tôi trong gia đình là sự học của đứa em út đã được giải tỏa.

Bác sĩ chẩn bệnh cho biết là ba tôi chỉ còn bốn đến sáu tháng với gia đình. Em gái tôi tìm ra bác sĩ Renner, một trong hai bác sĩ nổi tiếng chữa trị về gan trên thế giới ở trong một bệnh viện ở thành phố Beverly Hills. Trong hai năm sau đó, ba tôi tiếp tục cuộc đời thầm lặng, yêu thương gia đình với tình trạng sức khỏe khả quan; có những giây phút yêu đời, ba tôi hát những giòng nho nhỏ theo tiếng hát trên máy CD.

Hôm đầu năm nay, ba tôi trở lại bệnh viện tái khám vì những triệu chứng bất lợi. Bác sĩ Renner đã cố gắng giải phẩu và chữa trị liên tục. Gia đình tôi lo sợ vì ông bác sĩ tài hoa này có vẻ đăm chiêu sau những lần chữa trị, cô phụ tá Laurie ngạc nhiên vì sự quyết tâm dùng tài y thuật của ông ta cho người bệnh nhân này đi quá xa hơn mức bình thường, chúng tôi từ xa bay về thăm ba tôi. Ba tôi được gởi về để điều trị tại gia vào những ngày đầu tháng hai.

Tuần lễ thứ hai sau khi trở về nhà, ba tôi trở nên yếu dần, chiều ngày 15, ba tôi trở mình và mở mắt một cách tỉnh táo. Tôi gọi má tôi lên nói chuyện ba tôi, sau khi nghe những lời giã biệt, ba tôi nhìn vào mặt má tôi nói vài câu nhưng sự phát âm không ra lời. Hơi thở khó khăn của ba tôi bỗng nhiên trở nên thong thả sau những câu nói ấỷ, da mặt ba tôi hồng và tươi lên ... và ba tôi ngừng thở ! Ngoại trừ cô em gái tôi vừa chạy ra tiệm để mua thuốc, bảy anh em còn lại chúng tôi từ năm tiểu bang khác nhau từ New York, Texas, Idaho, Washington, California, quay quần bên ba tôi và quan sát những bước ra đi thanh thản của ba tôi.

Ba tôi ra đi cũng như ngọn hải đăng bỗng vụt tắt khi con thuyền gia đình của chúng tôi vừa ra đến trùng dương, với chúng tôi là những kẻ lữ hành và má tôi là một hoa tiêu – một hoa tiêu rất tài hoa ! Sóng gió của biển khơi sẽ không ngăn chận bước chân của chúng tôi vì ba má đã giúp chúng tôiõ chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc viễn trình của cuộc đời. Cô em kế tôi tiếp tục công việc kinh doanh khi vừa bước chân đến Hoa Kỳ, em trai nhỏ nhất của tôi theo chân chị sau khi trả nợ áo cơm với một mảnh bằng đại học, cả hai là những doanh nhân rất thành công, gia đình chúng tôi có năm cô gái là Kỹ Sư trong đó có ba cô cố gắng làm ba tôi hài lòng với mảnh bằng MS, người em trai ra đi với tôi năm nào đã tốt nghiệp ngành computer từ những năm xa xưa. Còn cô em gái út đã mang niềm vui cho ba tôi sau khi bác sĩ tuyên bố bệnh trạng của ba tôi thì vừa dạy vừa tiếp tục chương trình hậu đại học.

Hôm nay tôi viết lại những giòng này thể theo lời yêu cầu của một vài chú bác muốn đọc lại những lời ghi nhớ của tôi về ba tôi cách đây bốn tháng. Chữ ba tôi không viết hoa vì ba tôi luôn luôn thích sự trầm lặng và giản dị, nhưng nếu có một chữ tôi phải viết hoa, thì có lẽ chữ ấy phải là haiø chữ HY SINH !

Hứa Hữu Phước
New York City, ngày Father’s Day 2001 (6/17/2001)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 861,993,895
Tác giả sinh năm1949, định cư tại Mỹ theo diện HO năm 1991. Nghề nghiệp trước 75: dạy học. Công việc làm ở Mỹ: du lịch. Hiện đã hưu trí và là cư dân vùng Little Saigon, Westminster, California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà năm 2013 là "Kock and Me / Vi trùng lao và Tôi." Sau đây là bài viết thứ bẩy của Bà.
Tác giả sinh năm 1938, cựu sĩ quan an ninh quân đội, sang Mỹ theo diện H.O. vào năm 1990, hiện đã về hưu, an cư tại Westminster. Ông tham dự Viết Về Nước Mỹ từ 2008 và đã góp nhiều bài kể lại những sinh hoạt sống động. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả đã tham dự Viết Về Nước Mỹ từ 2007 và rất có lòng với bạn hữu và giải thưởng Việt Báo. Cô hiện là cư dân San Francisco, làm việc tại thư viện của một trường trung Học.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2000, từng nhận giải bán kết và giải Việt Bút, hiện là thành viên Ban Tuyển Chọn Giải Thưởng Việt Báo. Tác phẩm đã xuất bản: Chuyện Miền Thôn Dã. Bài viết mới nhất của ông kể về trường hợp một nữ tu trẻ gốc Việt phục vụ người nghèo trong vùng bão dữ ở Philippinnes hiện đang trong tình trạng thất tung, chưa biết sống chết ra sao.
Tác giả tên thật Nguyễn văn Hoa, sinh năm 1947 tại Quảng Bình, Việt Nam. Tốt nghiệp kỹ sư điện, học cao học và soạn luận án tiến sĩ kỹ sư (1970-75). Từ 1970 đến 1975 dạy đại học kỹ thuật tại Sài gòn. Năm 1975 định cư tại Hoa Kỳ, làm việc cho công ty tiện ích ở North Dakota cho đến năm 2012 thì về hưu.
Tác giả là cư dân Austin, Texas; Công việc: y tá trưởng trong một bệnh viện thành phố, đã góp nhiều bài viết sống động và nhận giải vinh danh tác giả Viết về nước Mỹ 2006. Bài mới của cô là một truyện tình nhẹ nhàng, kèm theo lời đề tặng đặc biệt:
Nguyễn Cao Thăng là tên thật của tác giả, 52 tuổi, dân gốc Kinh 5 Rạch Giá, một cựu thuyền nhân, hiện là kỹ sư cơ khí của hãng máy bay Beechcraft tại Wichita, Kansas. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên ông là “Một Vòng 5,000 Miles” ký bút hiệu Thăng Nguyễn. Tiếp theo là bài “Đưa Cha Mẹ Già Qua Mỹ”. Sau đây là bài viết thứ hai.
Tác giả sinh năm 1950, đến Mỹ năm 1994 diện tị nạn chính trị theo chồng, hiện sống ở Bắc Cali. Tốt nghiệp đại học ngành Early Childhood Education (giáo dục nhi đồng) tại Chapman University miền Nam California hồi tháng 5, 2012 khi tròn 62 tuổi, đang volunteer tại một trường học ở Marysville trong khi chờ đi dạy.
Tác giả sinh năm 1956. Qua Mỹ tháng 10 năm 1994 cùng với gia đình theo diện HO.; Hiện sống tại thành phố Tacoma, tiểu bang Washington, làm việc cho một công ty thuộc ngành lâm nghiệp tại tiểu bang Washington, tham dự Viết về nước Mỹ từ đầu 2013. Sau đây là bài viết thứ sáu của cô.
Tác giả đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ. Ông là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục, từng trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA. Bài mới là một du ký vui.
Nhạc sĩ Cung Tiến