Hôm nay,  

Cùng Mang Một Nỗi Đau

24/10/200100:00:00(Xem: 173393)
Bài tham dự số: 02-371-vb81015


Người đàn ông Mỹ với mái tóc trắng xoá và đôi mắt sáng quắc sau cặp kính trắng cứ chăm chú nhìn tôi như muốn dò hỏi một điều gì thầm kín. Tóc ông bạc nhưng không hói như bao nhiêu người Mỹ tôi thường gặp. Dáng vóc trông vừa mảnh khảnh lại vừa khác thường, bởi bờ vai trái của ông xệ hẳn xuống như một kẻ tật nguyền. Ông ngồi đó, đối diện với tôi nơi bàn cơm tối trong một nhà ăn của trường đại học ở Washington. Qua ánh mắt, tôi dự đoán có lẽ trong thâm tâm ông đang thắc mắc :
'' Anh có phải là người Việt Nam không ''" Hoặc là : ''Anh đến đất Mỹ này lâu chưa " Tại sao anh lại ở nơi đây, nơi một trường đại học của người Mỹ ''"
Thầm đoán vu vơ những câu hỏi đại khái như thế, rồi Tôi cũng mạnh dạn nhìn thẳng vào ông như muốn phải ứng :
- Không biết cái ông này đang thắc mắc gì vậy " Ông muốn hỏi thăm về quê hương tôi, hay ông đang muốn tâm sự một nỗi niềm trong chiến tranh Việt Nam mà ông đang ấp ủ trong lòng như bao cựu chiến binh khác.
Trầm ngâm với dòng suy tư của người muốn hỏi cũng như kẻ đang sẵn sàng phản ứng. Một không khí lặng lẽ giữa hai con người không cùng chủng tộc nhưng lại đang muốn thăm dò về nhaụ Phòng ăn chiều nay thưa thớt. Tất cả đang dán mắt vào truyền hình để theo dõi tin tức sốt dẻo của cuộc khủng bố. Bàn ăn của tôi chỉ có chừng năm người, nhưng những người ngồi quanh bàn hôm nay lại đang say mê với câu chuyện Trung Tâm Thương Mại Thế Giới và của Lầu Năm Góc tuần quạ Riêng người đàn ông đăm chiêu này dường như chẳng quan tâm nhiều đến chuyện thời sự sốt dẻọ
Bất chợt, ông nhổm dậy, vụng về đẩy chiếc ghế ra khỏi bàn ăn và làm nó té sầm trên sàn nhà. Cả phòng ăn nhớn nhác quay lại phiá người đàn ông hơi vụng về ấy như xem thử có gì đã xảy rạ Vì sau cuộc tấn công kinh hoàng ở New York, mỗi tiếng động, mỗi âm thanh lạ đều tạo nên một nỗi hoang mang, sợ hãị Có lẽ vì thế mà âm thanh của một chiếc ghế đổ trên sàn nhà cũng làm cho mọi người nhớn nhác. Còn người đàn ông ấy thì lại nở một nụ cười nhẹ nhàng và dơ tay như thầm xin lỗi tất cả mọi người vì sự vụng về ấỵ
Cúi xuống dựng chiếc ghế đổ dậy, ông ta tiến về phía chỗ tôi ngồi và mở đầu một câu hỏi đúng ngay như câu hỏi tôi đã dự đoán:
-Anh có phải là người Việt Nam không "
-Vâng , Tôi là người Việt Nam. Tôi tự tin trả lờị
-Tôi là Philip Lucid, Father Lucid. Ông ta tự giới thiệụ
-Chào Cha Lucid, tôi là Nam. Tôi bối rối chào ông.
Rồi kéo một chiếc ghế trống của bàn bên cạnh, tôi lịch sự mời ông Linh mục ngồị Trong lòng tôi hơi bối rối, hoá ra ông này là một Linh mục. Vậy mà lúc nãy tới giờ tôi cứ nhìn vào ông với ánh mắt có vẻ nghi ngờ. Vừa ngồi xuống, ông ta vào đề ngay:
-Anh có biết An Khê không "
Tôi hơi ú ớ, chắc ông đang hỏi một từ Latinh nào chăng" Rồi tôi hỏi lại:
-Xin ông hỏi lại ạ, tôi nghe chưa rõ.
-Anh có biết An Khê ở Việt Nam hay không " Ông lập lạị
Tôi chợt hiểu ! à thì ra ông ta đang hỏi thăm một địa danh ở Miền Trung Việt nam. Tôi đáp ngay:
-Tôi có nghe về An Khê, nhưng chưa bao giờ đến đó. Dường như đó là một vùng thuộc về Miền Trung Việt Nam.
-Đúng rồi, có lẽ An Khê ở gần Đà Nẵng. Đã quá lâu rồi nên tôi không còn nhớ rõ. Tôi chỉ biết rằng mình đã ở đó 2 năm và cũng là lúc tôi bị bắn gục trên chiến trường An Khê. Ông ta nói trong đôi mắt trầm buồn.
Mắt ông trầm buồn, nhưng mắt tôi lại tròn xoe kinh ngạc nên bắt đầu tuôn một loạt câu hỏi dồn dập:
-Tại sao ông là Linh mục mà lại ở bên Việt Nam" ngày xưa ông đi lính hả " Cấp bậc là gì vậy ".
-Vâng. Tôi mang lon đại uý, là Tuyên uý quân độị
Tôi không hiểu tuyên uý quân đội là gì nên hỏi tiếp:
-Thưa ông, Tuyên uý quân đội là gì ạ "
-Là Linh mục hay tu sĩ công giáo phục vụ trong quân độị Ông trả lời ngắn gọn rồi kể tiếp:
-Tôi tình nguyện qua Việt Nam năm 1968, sau khi chịu chức Linh mục. Phục vụ tại An Khê 2 năm. Rồi trong một trận hành quân ở đó cùng những người lính trẻ , họ chỉ mới 17-18 tuổi đầu, phần đông vừa xong trung học, chưa biết đời là gì. Tôi thương bọn trẻ, nên xin phép ra ngay chiến trường để vừa bên cạnh họ và vừa để giúp đời sống tinh thần trong lúc khẩn cấp cho những người bị thương và hấp hốị Rồi Trong một trận đánh quá căng với Việt Cộng, lính tráng ngã nhiều quá. Tới phiên một cậu lính rất trẻ bị trúng đạn và ngã xuống, tôi vội cúi xuống bế cậu lên mong kéo qua nơi an toàn hơn để băng bó và xức dầu, thì một viên đạn xuyên qua bã vai tôi, và viên đạn thứ 2 xuyên qua ngực cậu lính đang bị thương trên taỵ Tôi gục xuống, buông cậu lính trẻ ra khỏi tay và cố gượng sức dùng ngón tay viết một dấu Thánh Giá trên trán cậu(Theo thủ tục tôn giáo) , rồi nhìn cậu hấp hốị Tắt thở ! Rồi tôi cũng lịm ngất trong cơn đaụ


Hình ảnh ấy vẫn mãi ghi đậm trong tôi suốt cả một đời Linh mục. Và quê hương Việt Nam vẫn là niềm khắc khoải trong tôi một đờị Tôi vẫn mong có ngày trở lại trên mảnh đất thân yêu ấỵ
Tôi lặng người khi nghe những dòng tâm sự thiết tha ấỵ Lặng lẽ vì khâm phục, cảm động nhưng còn cả cái thinh lặng đớn đau trong tôi, nhớ đến người chú tôi cũng hy sinh trên chiến trường An Khê năm ấỵ Biết đâu người lính trẻ ông ta bồng bế trong giây phút cuối đời ấy lại là chú tôị"
Cả hai nhìn nhau thinh lặng, không phải cái thinh lặng ban đầu gặp gỡ với dò hỏi thắc mắc, mà là thinh lặng cảm thông, yêu mến và khâm phục. Tôi nhìn thấy từng giọt nước mắt xúc động lăn dài trên đôi má gầy gò của ông làm tôi cũng không cầm nổi xúc động. Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy những giọt nước mắt của một Linh mục công giáọ Tôi vẫn nghe nói, các ông Cha đạo thường có trái tim bằng đá : không rung cảm, không chuyển laỵ Nhưng sao hôm nay tôi thấy một ông Linh mục người Mỹ khác hẳn. Ông có một trái tim thịt mềm : biết rung cảm, biết yêu thương, biết chia sẽ những nỗi đau thầm kín với một sinh viên Á đông trong lần đầu gặp gỡ. Rồi cầm tay ông, tôi nói:
- Cám ơn Cha vì những giọt máu đã đổ trên quê hương con. Quê hương con vẫn mang hoài nỗi thương tích chưa thể nguôi ngoaị Vết thuơng của cha hôm nay có lẽ cũng đang nhức nhối với cái vết thương sâu hoáy của quê hương con, một quê hương điêu linh. Hôm nào con mời cha trở lại thăm quê hương con một lần, thăm chiến trường an khê một thời lửa đạn, thăm lại giọt máu đã đông khô của cha trên mảnh đất mịt mùng ấỵ Có lẽ bây giờ đất nước cũng đã thay đổi nhiều lắm rồi, con hy vọng thế.
Ông ta nhìn tôi trong ánh mắt thân tình trìu mến của đôi mắt Mục tử. Đôi mắt tôi chưa bao giờ gặp nơi những ông Cha đạo trước đâỵ Gạt giọt nước mắt còn đọng lại trên má, ông mỉm cười khẻ nói:
-Anh thật hạnh phúc vì không phải sống trong thời bom đạn.
-Nhưng con có nỗi đau của thân phận tị nạn, cha biết không" Tôi đáp.
Câu trả lời vắn vỏi ấy gây cho ông một niềm xúc động, một đồng cảm về cuộc sống. Rồi như muốn chia sẽ một nỗi niềm, ông nói tiếp:
-Vâng, mỗi người đều mang một nỗi đau, đau như tiếng khóc chào đời vì phải xa cách bụng mẹ dấu yêụ Nó cũng giống nỗi đau của những ai phải xa rời đất Mẹ. Ngày tôi xa quê hương để đến Việt nam, tôi cũng mang theo nỗi đau thương đó. Nay tôi thấy những người Việt Nam phải giã từ quê hương thật là một nỗi đau khôn nguôị
- Đúng vậy, thưa Chạ Chiến tranh đã qua đi trên quê hương tôi, nhưng mỗi một người Việt sống trên đất Mỹ cũng đang phải chiến đấu những cuộc chiến liên lỉ âm thầm. Cuộc chiến để hoà nhập, cuộc chiến để sinh tồn, và câu hỏi ''Tôi là aí' vẫn là niềm nhức nhối khôn nguôi mà bọn trẻ tụi con phải đương đầu mỗi lần muốn hoà nhập để sống trong xã hội Mỹ nàỵ
Vết thương chiến tranh vẫn mong có ngày lành lại, nhưng nỗi đau dai dẳng đi tìm chính mình trên một văn hoá xa lạ lại là một chiến trường nội tâm âm ỉ. Ai sẽ là ''Tuyên uý'' cho lũ trẻ chúng con trong cuộc chiến dai dẳng này"
Bất chợt, tôi thấy ông ta nhìn tôi trong ánh mắt chơi vơị Một cái nhìn bất lực nhưng chứa đầy cảm thông. Tôi cảm thấy lòng mình cũng vơi đi niềm đau của thân phận tha hương khi có một ai đó đồng cảm. Lòng như tìm được chút an ủi của mảnh đời sinh viên lạc lỏng trong khung trời đại học vắng bóng hình ảnh quê hương. Rồi trong thâm tâm tôi thầm trả lời : ''Vâng, có lẽ chính cha, chính cha cũng sẽ là ''Tuyên Uý'' cho lũ trẻ chúng con trong cuộc chiến nội tâm dai dẳng này như cha đã từng là Tuyên uý trên chiến trường An Khê năm xưạ
Tôi đứng dậy bắt tay chào vị Linh mục rồi lặng lẽ ra về. Trời bên ngoài đã tối, tối lắm ! nhưng trong lòng tôi dường như có một chút ánh sáng, ánh sáng của tình người, ánh sáng từ một con người, con người đã đến trên quê hương tôi 30 năm về trước, và đã đến với lòng tôi trong buổi chiều âm u cô đơn nàỵ Ông đến rồi ông đi, nhưng ông đã để lại trong tôi một hơi ấm, nó như chút than hồng sưởi ấm giữa trời đông viễn xứ.

NGUYỄN NAM SAN
10. 2001

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 867,186,799
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến