Hôm nay,  

Nước Việt, Nước Mỹ

07/04/200200:00:00(Xem: 160429)
Người viết: Thiên Vũ
Bài tham dự số: 2-505-vb50328
Tác gia, theo bài viết, đã 40 tuổi nhưng ông không gửi kèm tiểu sử. Đã có hai bài Viết Về Nước Mỹ của hai người khác nhau mang cùng một bút hiệu Thiên Vũ. Mong bạn Thiên Vũ, tác giả bài viết này, bổ túc dùm địa chỉ, tên thật và dăm dòng sơ lược tiểu sử.


Nhờ hết chịu hổi thứ "ánh sáng quang vinh của Đảng" mà tôi đã "được" đến Mỹ.
Rời nước Việt trong lo âu, đau buồn, sợ hãi. Đến nước Mỹ trong buồn chán, tủi nhục, ê chề.
Thế rồi năm tháng cứ trôi qua. Tôi bây giờ đã là "US Citizen."
Sống trong một căn townhouse cũng không đến nỗi chật hẹp lắm. Lái một chiếc xe cũng không đến nỗi tồi tệ lắm. Mười hai năm. Vâng, tôi đã ở nước Mỹ mười hai năm.
Thời gian tôi sống ở
nước Việt hơn gấp đôi số thời gian tôi sống ở nước Mỹ. Hôm nay đây, tôi thử làm một sự so sánh về nước Việt và nước Mỹ.
Nước Việt.
Nơi tôi đã sinh ra và lớn lên. Nơi đã cho tôi nhiều kỷ niệm. Viết về nước Việt, tôi có thể viết hoài, viết mãi. Nhưng tôi chỉ muốn nhắc đến một khía cạnh của nước Việt mà ai cũng nghĩ tới mỗi khi nhắc đến hai chử Việt Nam. Đó là chiến tranh và nghèo khổ. Trước khi tôi sinh ra, chiến tranh đã có. Sau khi tôi sinh ra, chiến tranh vẫn đang tiếp diễn. Cho đến giờ phút này, ngồi viết những dòng chữ này. Chiến tranh vẫn tiếp diễn. Tuy không ác độc, tàn ác và đổ máu và gây nhiều tang tóc như trước, nhưng nó vẫn âm ĩ và sôi sục. Suốt thời gian tôi sống trên đất nước Việt Nam, tôi đã "được" sống dưới hai chế độ. Chế độ của ông Thiệu và chế độ cộng sản.
Thời gian tôi sống dưới chế độ ông Thiệu bằng với thời gian tôi sống dưới chế độ cộng sản. Công tâm mà nói, sống dưới thời ông Thiệu, tôi thấy thoải mái hơn, tự do hơn, no ấm hơn. Măc dù "sự nghiệp Tổng Thống" của ông không lấy gì làm vinh quang. Mặc dù ông Thiệu không được đánh bóng bằng cụm từ "lo cho dân cho nước” như kiểu sách báo đảng CSVN thường nói về ông Hồ hoặc là các ông "đỉnh cao trí tuệ" của đảng cộng sản, sống dưới chế độ cộng sản thì chỉ có khốn nạn, đói nghèo và lạc hậu. "Dân Việt Nam chỉ được hưởng khẩu hiệu hữu nghị, diễn văn chúc mừng và trại tập trung."
Nếu bị bắt buộc chọn lựa, tôi thà là sống dưới chế độ ông Thiệu còn hơn là sống dưới chế độ cộng sản.
Việt Nam, một đất nước chiến tranh. Ai cũng biết. Nhưng sự nổi tiếng về nghèo đói và lạc hậu thì phải nhờ đến những "đỉnh cao trí tuệ" và "ánh sáng quang vinh" của đảng cộng sản. Việt Nam dưới thời ông Thiệu, không đủ sức để so sánh với các nước châu Âu, châu Mỹ. Nhưng với các nước láng giềng Đông Nam Á như Thái Lan, Tân Gia Ba, Mã Lai Á, chưa chắc đã thua. Cho dù đó là "phồn vinh giả tạo." Tôi thà chấp nhận "phồn vinh giả tạo" còn hơn đói khổ triền miên.
Nước Việt trong trí tôi là thế đó. Là sự nghèo đói. Không chỉ đơn thuần đói cơm, đói áo mà đói đủ thứ. Đói tự do, đói hiểu biết. Là những nhà tù và trại tập trung. Là sự lo sợ mỗi ngày. Sợ đủ thứ. Ngay cả đến anh công an khu vực hoặc anh tổ trưởng tổ dân phố.
Mười bốn năm sống dưới chế độ ông Thiệu. Mười bốn năm sống dưới chế độ của những "đỉnh cao trí tuệ". Và mười hai năm sống trên đất Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Tôi đã có một cái nhìn và nhận định rõ ràng. Chủ nghĩa xã hội của những "đỉnh cao trí tuệ" là một chế độ tồi tệ nhất.
Như tôi đã viết ở trên. Nhờ sự "chăm sóc chu đáo, tận tình" và nhờ "ánh sáng quang vinh của Đảng" khiến cả dân chúng cả nước ai nấy đều muốn vượt biên, tôi đã được đến Mỹ.


Thiên đường. Hiêp Chủng Quốc Hoa Kỳ, là đất nước đã tiếp nhận tôi. Nhớ lại ngày đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ sau bao nhiêu tháng chờ đợi ở "quán trọ trước cổng thiên đường", tôi ngơ ngáo nhìn xe cộ qua lại. Nhiều xe quá. Đường xá sao mà rộng quá. Mà sao đường từ phi trường về nhà lại xa vời vợi. Đi hoài không thấy tới. Mà lại còn lên núi. Phố xá thưa dần. Nhà cửa vắng vẻ. Thế rồi xe dừng lại. Bước vào nhà. Trời ơi. Nhà đẹp quá. Sạch quá. Lớn và rộng quá. Nhớ lại những ngày sống chật chội cùng rệp và muỗi ở Việt Nam cũng như ở trại tị nạn, tôi bàng hoàng như người mơ ngủ. Đây Hoa Kỳ, miền đất hứa. Cảm giác đầu tiên của tôi là mọi thứ đều to lớn, rộng rãi và sạch sẽ.
Sau khi tắm rửa, thay quần áo (trời ơi, phòng tắm mới đã làm sao), tôi được đãi ăn phở. Phở, tôi tưởng khó có thể ăn lại món này. Thế mà ngay ngày đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ, tôi đã được ăn phở. Ngon. Sạch sẽ. Nhiều thịt. Sau khi ăn uống xong, tôi ngồi coi tivi. Tôi đổi đài lia lịa bởi vì phim nào đối với tôi cũng thật hay và hấp dẫn. Mà sao nhiều đài quá. Tôi bấm mỏi tay mà vẫn còn đài.
Đêm đầu tiên ở Mỹ. Ngủ trong căn nhà to lớn, thoáng mát, sạch sẽ. Không cần mùng. Không có muỗi. Nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ được. Tôi cứ suy nghĩ miên man. Tôi suy nghĩ về nước Mỹ rồi tôi lại nhớ cái địa ngục Việt Nam đã đày ải tôi khốn khổ. Tôi lại không quên được cái địa ngục ấy! Thế rồi tôi thiếp đi lúc nào không biết.
Ngày hôm sau tôi được chở đi làm thủ tục giấy tờ, xin thẻ an sinh xã hội, căn cước. Chẳng có gì đáng nói. Nhưng có một chuyện mà tôi ghi nhận và nhớ hoài. Người em bà con của tôi chở tôi đi hết cơ quan này đến cơ quan khác mà không hề nhắc nhở đến chuyện ăn trưa. Mặc dầu lúc đó là đã hai giờ chiều. Bụng thì đói. Tôi nghĩ không lẽ ở Mỹ người ta không ăn trưa. Ở Việt Nam cứ đúng giờ là bữa ăn được dọn ra, gia đình quay quần, vừa ăn vừa nói chuyện.
Đói quá, vừa tính mở miệng hỏi người em xem ở Mỹ người ta có ăn trưa không thì cậu ta đề nghị ghé vào tiệm ăn Hamburger. Sau này tôi mới thấy ăn trưa hoặc ăn tối ở Mỹ chẳng có giờ giấc chi cả. Mà cũng chẳng có gia đình quây quần. Nhiều khi tám chín giờ tối mới ăn tối và chỉ ăn thui thủi một mình.
Sau mười hai năm sinh sống ở Mỹ tôi vẫn còn nhớ rõ những cảm nghĩ đầu tiên đó. Mười hai năm trôi qua tôi đã suy gẫm thêm được chuyện gì. Tôi chưa được tận mắt nhìn tượng nữ thần tự do ở Nữu Ước. Nhưng đối với tôi, nói đến nước Mỹ là phải nói đến tự do. Nhân dân Mỹ được hưởng tự do thật sự. Sự tự do đó đã góp phần cho sự phồn thịnh của nước Mỹ. Đầu óc và tư tưởng không bị gò bó. Dám nghĩ và dám làm. Nhân dân Việt Nam "nghĩ" còn chưa dám, nói chi đến "làm". Tôi ao ước được sống ở Việt Nam dưới một thể chế tương tự như thể chế của xứ Hoa Kỳ.
Bỏ qua cái chuyện ăn uống. Bỏ qua cái chuyện nhà cao, cửa rộng. Bỏ qua cái chuyện "phồn vinh giả tạo" của xứ Hoa Kỳ. Tôi chỉ ao ước dân Việt được hưởng sự tự do mà dân Mỹ đang hưởng. Sự tự do sẽ nảy sinh sáng kiến. Sáng kiến sẽ đem đến phồn thịnh.
Để tóm tắt cho sự so sánh của tôi như thế này. Nước Việt: Nghèo đói. Nước Mỹ: Giàu mạnh. Nước Việt: không có tự do. Nước Mỹ: vô cùng tự do. Nước Việt: ngược đãi hiền tài. Nước Mỹ: trọng đãi nhân tài. Nước Việt:
địa ngục. Nước Mỹ:
thiên đàng.
Nhưng sao tôi đang sống trên thiên đàng mà lòng cứ mơ màng địa ngục!"
Thiên Vũ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,502,791
Tác giả là một thuyền nhân, hiện là cư dân Quận Cam, đã tham dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2010 với bài viết Bài viết “Từ Câu Chuyện Cậu bé Thành Padua," thể hiện sự phẫn nộ trước việc nươc Tàu cộng sản trắng trợn lấn đất, lấn biển của Việt Nam, bắn giết ngư dân Việt. Sau đây là bài viết mới của bà.
Tác giả là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục năm 2000, từng là nhà giáo trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA. Ông là tác giả đã nhận giải thưởng danh dự Viết Về Nước Mỹ năm 2005. Bài viết mới của ông là một hồi ức dễ thương về đảo tị nạn Galang 2, với lời ghi “để nhớ hai người bạn đã đưa tôi đến Galang, Hải quân Trung uý Đạt và Hoa.
Tác giả họ Vũ, hiện là cư dân California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là “Giấc Mơ Thiên Đường”, truyện ngắn về một thảm cảnh gia đình Việt tị nạn. Bài thứ hai , “Trường Đời: Học Làm Chồng” là một truyện về ông gia trưởng gốc Việt học phép làm chồng từ ông Mỹ hàng xóm. Đây là một truyện vui nhanh chóng đạt số lượng người đọc đáng nể. Bài mới sau đây, tiếp tục cho thấy tài kể chuyện duyên dáng của tác giả. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ hiện phổ biến bài viết của năm 2013. Mong Tuyết Phong sẽ tiếp tục viết.
Tác giả tên thật Hùng Túy Trước, tuổi Giáp Ngọ, cư trú tại Austin, Texas, đã góp nhiều bài Viết Về Nước Mỹ đặc biệt. Giải thưởng Việt Báo năm thứ ba, cùng lúc với giải danh dự, Chúc Chân còn nhận thêm giải "Writing on America" cho bài viết bằng Anh ngữ. Sau đây là bài viết mới nhất của cô.
Tác giả đã góp nhiều bài viết với kiểu “viết như nói” và nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2005. Cô tên thật là Trần Thị Ngọc Trâm, sinh năm 1965 tại Saigon, thứ nữ một gia đình H.O. Công việc đang làm: nhân viên xã hội tại Salem Oregon. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả tự sơ lược tiểu sử: Trước năm 75, còn đi học, chỉ viết cho các báo thiếu nhi, học trò. Qua Mỹ từ 1990. Hiện ngụ tại Myrtle Beach, SC. Hải Âu tham dự viết về nước Mỹ từ 2010, bài đầu tiên: Mẹ Chồng, cho thấy tác giả có bút pháp đặc biệt, khi kể về hồn thiêng yêu thương của bà mẹ chồng. Bài thứ hai, Một Mảnh Đời Tị Nạn, kể về những ngày đầu mới tới nuớc Mỹ. Bài thứ ba: “Tôi Là Đốc Tờ Nail”. Sau đây là bài viết mới nhất.
Đây là bài Viết Về Nước Mỹ thứ năm của Lê Thị, trong số 7 bài tác giả đã liên tiếp gửi về cho toà báo. Trong số này, có 4 bài viết về đề tài đồng tính. Lê Thị -cư dân Chicago, 35 tuổi- với tài viết và sức viết mạnh mẽ khác thường, hiện là tác giả dẫn đầu số lượng người đọc Viết Về Nước Mỹ trong hơn hai tháng qua.
Tác giả là một huynh trưởng viết về nước Mỹ, thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết, vừa phải báo “tạm rút” năm nay. Điện thư của ông ngày 25 tháng 6, nguyên văn như sau:
Tác giả đã góp nhiều bài viết giá trị cho Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biên đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA.
"Hồi Ức Tháng Tư của Long Mỹ" là bài viết của Paul LongMy Choate, Đại Tá Hải Quân, một cấp chỉ huy trên Hàng Không Mẫu Hạm nguyên tử lớn nhất của Hoa Kỳ USS CARL VINSON (CVN-70). Đây là con tầu đã tung ra các đợt tấn công đầu tiên trên không ở Afghanistan sau biến cố 9/11 và cũng chính nó đem thi hài Osama Bin Laden thủy táng trên biển. Tháng Tư 2012, cũng con tầu này đã tiến vào Thái Bình Dương, thăm Úc, đánh dấu việc Hoa Kỳ chuyển trọng tâm chiến lược sang Á Châu.
Nhạc sĩ Cung Tiến