Hôm nay,  

Tình Người

01/05/200200:00:00(Xem: 177560)
Người viết: NGUYỄN QUÍ THẢO

Bài tham dự số: 2-526-vb60426
Tác giả 53 tuổi, cựu sĩ quan Quân Lực VNCH, cựu tù cải tạo, hiện cư trú tại Los Angeles.

Nơi tôi làm việc cách trung tâm thành phố Los Angeles chừng 2 dặm, vùng này đa số là vùng Mỹ đen, Mễ và một số dân Trung Mỹ khác. Cũng có nhiều người Mỹ trắng mà tôi vẫn thấy trên đường họ đến hoặc tan sở, nhưng chắc họ sống một nơi nào đó khá hơn. Đại để, nơi đây qui tụ những sắc dân có lợi tức thấp. Đen, trắng, đỏ, vàng. …Thậm chí có cả da xanh, da xám của những người chuyên kết bạn với các nàng tiên nâu, tiên trắng.

Nhiều người, thoạt nhìn, cứ tưởng họ là Mỹ đen nhưng qua giao thiệp mới biết rằng họ không nói được tiếng Mỹ. Nhiều sắc dân, nhiều ngôn ngữ, nhiều tệ đoan nên bức tranh tổng thể của thành phố này cứ như là tranh của… Picasso vậy! Bởi lẽ khi xem tranh của nhà đại danh họa này tôi chẳng hiểu ất giáp, mô tê gì cả! Nhưng rồi cứ mãi sống, làm việc với nó hàng ngày, tôi cũng nhận ra nhiều điều đẹp đẽ, tốt lành, mới lạ, pha chút kỳ bí.

Là tôi, một người Việt Nam da vàng, mũi tẹt, mắt lờ đờ, giọng Quảng Nam cứng như cá gỗ, bị đọa đày hàng chục năm trong "Đại học máu" tù cải tạo. Thân thể gầy còm, cân cả bì không hơn 110 lbs. Chẳng hiểu, Mỹ trắng, Mỹ đen nhìn tôi họ nghĩ gì" Một thằng bệnh hoạn mới ra khỏi nhà thương" Vẫn biết thế, nhưng thú thật từ lâu, ngay khi còn ở quê nhà Việt Nam tôi vẫn ít khi giao thiệp với những người khác màu da, tiếng nói. Biết họ văn minh, giàu có nhưng ít khi nào họ có chỗ đứng trong đầu óc tôi. Mãi đến bây giờ qua chuyện kể dưới đây, sau gần 10 năm sống trên đất Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, từ những người Mỹ trắng cổ còn cà vạt, những người Mỹ đen homeless, những chị Mễ tây Cơ không một chữ tiếng Anh, không số an ninh xã hộii. Tất cả đã dạy cho tôi những bài học vô cùng quý giá để đời, đã đánh tan mọi thiên kiến, hẹp hòi trong đầu óc tôi bấy lâu nay: Bài học Tình Người mà tôi đã nhận được từ một người Mỹ đen già homeless.

Ông ta nằm đó, một khoảng hiên nhà thờ Tin Lành, cách chỗ đậu xe hàng ngày của tôi chừng hơn 10 mét. Cái túi ngủ dơ dáy, bạc màu có đôi chỗ rách. Vài miếng cạc tông làm chiếu, một chiếc shopping cart chứa vật dụng linh tinh…, chẳng biết làm sao ông đẩy nổi cái xe này.

Tôi nhớ có lần thấy ông không tài nào đứng lên được. Ông cố bám vào xe, rướn cong người, chập choạng rồi cuối cùng ông nằm vật xuống với những tiếng chửi thề nghe rõ mồn một.

Có thể ông ta rung vì bệnh, vì đói" Nhớ hồi còn ở trong tù của “chế độ xã hội chủ nghĩa ưu Việt, đỉnh cao trí tuệ loài người,” được lao động là vinh quang làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm, làm thêm Chủ Nhật. Được cho ăn toàn "cao lương" mỹ vị. Nghe nói cao lương hay còn gọi là bo bo là thức ăn dành cho ngựa, chẳng biết sao mà ngựa nó khỏe thế, còn tù càng ăn thì càng yếu, chân tay cứ run bần bật, có lúc đứng lên không nổi. Hiểu nỗi khó khăn của ông già Mỹ đen, tôi thấy tội nghiệp nên định đến giúp ông đứng dậy. Chân thì muốn bước nhưng bên tai cứ văng vẵng đâu đây, nào là: Ách giữa đàng mang vào cổ, làm ơn mắc oán, tình ngay lý gian vv… Thấy mình có lý, tôi quay vào để mặc ông tự xoay xở, lòng chẳng chút bâng khuâng…

Một lần khác, buổi sáng nắng ấm, tôi thấy ông ta vịn tay vào chiếc shopping cart, đi lại loanh quanh chỗ nằm. Tôi nghĩ chắc ông đang cố tập exercise. Thình lình, bằng một giọng Mỹ đen đặc sệt ông gọi tôi: “Eh! Man, come here.” Nhìn khuôn mặt ông dữ dằn, đôi mắt lồi gợn lên những tia nắng ngoằn ngoèo, đôi môi dày cui như thách thức, tôi cố trấn tỉnh bước đến. Ông nói như ra lệnh:

“Mày cho tao một đồng 75 xu và một điếu thuốc.”

Từ cha sanh mẹ đẻ tôi chưa gặp ai đi xin mà phách lối như thế. Nhưng hàng ngày vẫn gặp ông, vẫn đậu xe ở đấy, thôi thì mua sự bình an vậy. Tôi đưa ông chẳn 2 đồng, 1 điếu thuốc, còn cẩn thận bật diêm cho ông. Vừa quay lưng bước đi, ông hỏi tiếp:

“Mày có phải Việt Nam không"”

“Phải, tôi đáp gọn.”

“Mày có biết ‘bú c., không"

Tôi giật mình. Ông ta vừa nói một câu tiếng Mỹ có xen tiếng Việt, tôi nghe không sai một chữ nào. Sau cái giật mình là chưng hửng, tôi không thể tưởng tượng nổi. Một ông già Mỹ đen bệnh hoạn đến thế là cùng. Phải trả lời ông ta thế nào"

Sợ quá, nhưng vẫn cố nghe ông nói, đến khi nghe rõ hai tiếng Qui Nhơn thì mới nhận ra ông hỏi tôi là mày có biết Phù Cát không" Vậy mà...

Thì ra ngày xưa ông đã từng chiến đấu ở đó, ngày nay ông homeless ở đây! Biết ông là cựu chiến binh, một thời ngang dọc ở chiến trường miền Trung Việt Nam sôi động, tôi thấy yên tâm, lòng thầm cảm phục.

Dần dà tôi thường nói chuyện với ông. Có lần cũng bằng một giọng xấc xược như thế, ông kêu tôi lại. Moi từ shopping cart đưa tôi một lon bia, tôi lịch sự từ chối. Ông bảo:

“Mày uống đi, xâu bia con gái tao cho hôm sinh nhật thứ 59 đó. Mày sợ dơ à" Còn sạch hơn nhiều lần nước hố bom có lẫn xác người nữa đấy. Mày là lính, tao cũng là lính, mày từ chối sao"”

Tôi uống lon bia, nghe ngọt ngào đến tận tim gan, quên mất rằng lon bia này là của một người homeless!

Ngày qua tháng lại, lu bu với công việc, thường khi tôi đến chỗ làm thì ông vẫn còn say ngủ. Cho đến một buổi sáng mùa đông, ngoài trời mưa to, gió lớn, lạnh tê buốt cả chân tay.

Hôm ấy, vừa xuống xe, lấy mấy thứ cần dùng xong đóng sầm cốp xe lại định chạy nhanh vào trú mưa. Tôi chết điếng người, la lên một tiếng lớn. Hai ngón tay tôi bị kẹt cứng ở cốp xe như nát nghiến, ổ khóa bị hư từ lâu nên không mở được. Tôi cố loay hoay dùng hết sức mình để lấy tay ra nhưng không tài nào làm nổi. Sáng sớm không người qua lại, tôi đứng chết trân với cơn đau khủng khiếp giữa trời mưa gió. Tôi la to gọi ông đến cả chục lần “wake up! Help me-please.” Cuối cùng thì cái túi ngủ động đậy, ông tỉnh dậy thấy tôi vừa la cầu cứu, vừa chỉ vào hai ngón tay mình bị kẹt ở đó. ông bám vào chiếc shopping cart cố đứng dậy rồi lại khụyu xuống đôi lần nhưng vẫn không sao đứng được. Thấy tôi trong cơn nguy khốn mà ông cũng đang lúc khốn nguy. Chợt tôi thấy mắt ông sáng rực lên như muốn quyết định một điều gì đó để cứu tôi mà tôi không thể nào hiểu được.

Ông rút một đoạn sắt từ trong shopping cart, có lẽ vật dụng để bới rác của ông hàng ngày, với thế bò hỏa lực của một người lính chiến, 2 tay nâng thỏi kim loại tưởng chừng như khẩu M16 ngày nào. Ông cố bò đến chỗ tôi. Một người homeless da đen, cứu một người ngộ nạn da vàng! Ông cố bò, cố bò từng bước một. Mặt đường ướt sũng, thân thể ông ướt sũng…...

Vậy là với một quyết định vô cùng thông minh, dũng cảm của một người lính như đang chạm địch, cố cứu bạn đồng đội.

Tháng lại ngày qua ông vẫn ở đó, lúc khỏe chẳng biết ông kiếm ăn ở chỗ nào. Có lúc tôi mời ông điếu thuốc, tặng ông cái bánh bao. Đôi khi chuyện trò ông bảo: Việt Nam mày đẹp lắm, người Việt Nam mày nghèo nhưng hiếu khách, ông còn khoe biết ăn cả nước mắm Việt Nam, và nói về bánh mì ông cho rằng không chê vào chỗ nào được. Vâng, tôi sẽ mua cho ông ngày mai, tôi nghĩ vậy.

Và rồi, trên đường đến chỗ làm, 2 ổ bánh mì chả gói sẵn. Một cho tôi, và một cho ông, chắc là ông thích lắm. Vừa quẹo xe vào ngã tư, tôi thấy nhiều xe cảnh sát, ambulance vây quanh khoảng hiên nhà thờ chỗ ông trú ngụ. Cầm hai ổ bánh mì trên tay, nhảy vội xuống xe tôi đến gần, cảnh sát ngăn tôi lại. Phút chốc, một chiếc xe khác chạy đến, vài người trên xe nhảy xuống, nhìn áo họ mặc với hàng chữ sau lưng tôi biết: Ông đã vĩnh viễn xa rồi!

Từ đó khoảng hiên nhà thờ sạch đẹp hơn xưa, nhưng với tôi chẳng nghĩa lý gì. Thà cứ để ông nằm đó cho tôi còn được một người bạn tốt. Ông ơi, giờ này ông ở đâu" Ông đã thực sự đi được rồi, ông đi vào cõi vĩnh hằng bằng đôi cánh bay xa…xa mãi. Cám ơn ông, người bạn mà cho tới bây giờ tôi vẫn chưa kịp hỏi tên. Ông đã cắt nghĩa cho tôi bài học đơn sơ của Thiên Chúa mà tôi đã từng nghe nhưng chưa từng hiểu được: Yêu người như yêu mình ta vậy.

Vâng, Lạy Chúa từ đây con biết yêu thương hết thảy mọi người bất kể màu da, tiếng nói. Nhưng cũng lạy Chúa, xin tha cho con, vẫn còn một màu mà chắc suốt đời con chẳng thể thương được: màu đỏ máu của một lá cờ!

Nguyễn Quý Thảo

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 864,935,506
Tác giả tên thật Tô vĩnh Phúc, từng viết một số văn thơ dưới nhiều bút hiệu khác nhau, nhưng bút hiệu sau cùng là Giang Thiên Tường. Thơ văn đã đăng ở tuần báo Phụ Nữ Cali và Làng magazine ở bắc Cali và các trang web. Tác phẩm mới nhất được xuất bản là thi tập "Bên Bến Sông Buồn"(2011). Trong những năm 1990, xuất bản và phát hình tuần báo Phù Sa ở Bắc Cali. Hiện là cư dân ở Sacramento, California. Mùa Mothers Day 2011, ông có bài “Chuông Gọi Mẹ Thương.” Sau đây là bài mới cho Mothers Day năm nay của ông. 
Tác giả sinh năm 1957, cư dân Santa Ana, nghề nghiệp: làm nail. Loạt bài viết về nước Mỹ gần đây của tác giả với tên thật Nguyễn Thị Hữu Duyên gồm: Bỏ Gì Thì Bỏ; Ước Vọng Của Tin, thể hiện tình thương yêu và ý chí của một gia đình Việt Nam trên đất Mỹ. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả tên thật là Yến Phi, 63 tuổi, hiện là cư dân WA. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà cũng là bài viết đầu tay nhân mùa Mothers Day, sau nhiều “vật lộn” khó khăn với chữ Việt trên computer, được tác giả trân trọng gọi là “Tác Phẩm Đầu Tay Dâng Mẹ.” Tựa đề được đặt lại theo nội dung bài viết. Mong tác giả tiếp tục.
Từ giữa năm 2010, tác giả tự sơ lược tiểu sử khi tham dự Viết Về Nước Mỹ: Trước 75, còn đi học, chỉ viết cho các báo thiếu nhi, học trò. Qua Mỹ từ 1990. Hiện ngụ tại Myrtle Beach, SC. Bài mới của Hải Âu cho giải thưởng năm thứ mười hai là một chuyện tình chia lìa vào Tháng Tư 1975.
Kông Li là bút hiệu vui vẻ của Phạm Công Lý, tác giả đã có nhiều bài viết về nước Mỹ giá trị, vừa nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 20011. Là một cựu sĩ quan VNCH, cựu tù, ông cùng gia đình đến Mỹ từ tháng 11/1994 theo diện HO, định cư tại Boston.
Tác giả đã góp cho Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12 nhiều bài viết đặc biệt. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biên đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA. Bài viết mới của tác giả cho mùa Mothers Day là một tự sự cảm động về Mẹ.
Tác giả tên thật là Nguyễn Tân, tuổi 60', cựu sĩ quan hải quân, cư dân Glendale, CA. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, từng nhận các giải bán kêt 2001 và giải Việt Bút 2008, hiện là thành viên "Ban Tuyển Chọn Chung Kết" Giải Thưởng Việt Báo. Bài mới “góp vui” của ông là một truyện hiếm có mở đầu cho mùa Mothers Day đang tới.
Tác giả là một nhà giáo, từng là Chủ tịch Hội Ái Hữu Ninh Thuận, hiện đã về hưu và là cư dân Riverside, Nam Cali. Ông đã góp nhiều bài viết đặc biệt cho giải thưởng Việt Báo từ năm đầu tiên, và nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2009. Tháng 2, ngày 3, 2012, Phạm Hoàng Chương có bài “Người Lấy Ba Vợ”, kể về người bạn thân từ thời học trò đi H.O. qua Mỹ, về Việt Nam sông với bà vợ mới đang gặp cảnh khó khăn, lương hưu bị ăn chặn. Bài từ tháng Ba, hiện đã có tới 19,151 lượt người đọc. Biết tác giả sau đó đã giúp bạn trở lại Mỹ để giải quyết vụ lương hưu, nhiều thân hữu hỏi kết quả ra sao. Sau đây là đầy đủ câu chuyện: ông bạn chỉ có ba mà là bốn bà vợ. 
Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của tác giả dành cho giải thưởng năm thứ 12 là “Chuông Gọi Mẹ Thương” đã phổ giến vào dịp Mother's Day 2011, Chủ Nhật 8-5-2011. Mới đây, ông có thêm 2 bài viết mới, trước hết là một chuyện kể về con tầu vượt biển đúng vào một đêm 30 Tháng Tư. Bài còn lại sẽ phổ biến sau.
Thời hạn dành cho bài Viết Về Nước Mỹ hàng năm kết thúc ngày 30 tháng Tư, nhưng như mọi năm, số lượng bài đã góp trước ngày này vẫn chưa thể phổ biến hết. Do đó, từ hôm nay, Việt Báo tiếp tục phổ biến thêm những bài dành cho năm 2012.
Nhạc sĩ Cung Tiến