Hôm nay,  

Người Mỹ Và Tôi

12/05/200200:00:00(Xem: 170437)
Người viết: Lê Hải Dương
Bài tham dự số: 2-532-vb60503
Tác giả Lê Hải Dương, định cư tại Orange County, cho biết bà sang Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình. Bà tự mô tả bà là “một bà Bắc Kỳ hủ lậu” và hiện sống bằng tiền già. Sau đây là bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của bà.
Trước đây, tôi rất ghét người Mỹ. Đó là thói quen từ hồi Pháp thuộc. Hồi nhỏ, thời chiến tranh Việt Pháp, tôi đã từng thấy lính lê dương Pháp đi càn quét, lùng sục.

Hồi Mỹ tới Việt Nam thì tôi đã trên bốn mươi tuổi. Tuy không thấy cảnh người Mỹ hà hiếp đàn bà con gái, nhưng hình ảnh các anh lính Mỹ với các cô gái cợt nhả trong những bar rượu vẫn làm tôi không rửa gột được bớt chút thành kiến nào. Nhất là lúc con gái đầu lòng của tôi yêu một nhân viên người Mỹ qua làm việc tại miền Nam.
Tôi đã khóc lóc, van xin con gái. Nhưng nó vẫn khăng khăng, cho cả nhà biết, nếu không lấy được người nó yêu thì nó sẽ tự vận. Tôi cũng cương quyết không chấp nhận. Tôi nói:
"Thà là má giết chết con, chớ không khi nào chấp nhận cho con lấy người ngoại quốc."
Con gái tôi khóc:
"Người Mỹ cũng là người, sao má kỳ thị quá vậy. Con đã thương người ta, người ta cũng thương con, chỉ có chết mới bứt con ra khỏi anh ấy."
Tôi hét lên:
"Vậy thì mày chết đi. Chết đi, con bất hiếu."
"Con…Má ơi! Sao má muốn con chết, sao má…"
Giận mất khôn, đầu óc của tôi như đang bừng bừng một cơn bão dữ:
"Mày chết thì tao đem chôn, còn cho lấy thằng đó, nhất định không."
Chồng tôi có can thiệp, nhưng yếu xìu:
"Em à, em đừng căng quá, con nó…"
"Nó chỉ dọa thôi, ông sợ…. Nó chết thì chết, tui nhất định vậy là vậy."
Con gái tôi không chết, vẫn âm thầm đi lại với người ngoại quốc mà tôi ghét như đào đất đổ đi. Tôi thường kêu than: Trời ạ, đúng là con ghét của nào trời trao của ấy. Nhưng tôi thà mất con, nhất định không cho, không cho… Cuối cùng, con gái tôi đã bức1y gia đình, tự kết hôn, sống với người ngoại quốc. Từ đó, tôi không cho phép bất cứ ai trong gia đình gặp đứa con hư. Tôi nói áo không mặc qua khỏi đầu. Tôi đâu ngờ, thời này người ta đã chế ra chiếc áo thun tròng cổ, mỗi lần cởi áo không có khuy, nên phải lột ra khỏi đầu rồi. Tôi coi nó như đã chết.
Tôi khóc than đến muốn mù cả cặp mắt. Tôi tưởng đã điên lên vì xấu hổ. Bất cứ người quen nào nhìn tôi, tôi có cảm tưởng như mắt họ đầy khinh bỉ muốn nói tôi là mẹ của con me Mỹ. Me Tây, me Mỹ, hai chữ đó ám ảnh tôi, day dứt, làm khổ tôi cả trong giấc ngủ, và chắc còn làm khổ tôi, tôi dở sống dở chết trong khoảng đời còn lại.
Một ngày nọ, không một lời từ giã, con gái tôi theo chồng về Mỹ. Nó có lén gặp chồng tôi, mấy đứa em, nhưng tôi thì không. Tôi coi nó như đã chết thì nó cũng đã coi tôi như đã chết. Tôi cắn răng, tự an ủi, ừ, mày đi đi, đi càng xa càng tốt, y như câu mẹ tôi ngày xưa thường nói: Thà khuất mặt hơn là lòng đau. Nó đi một năm, hai năm, rồi năm năm, nỗi giận con vẫn chưa nguôi trong lòng.
Tới năm thứ năm thì tháng Tư đen đổ ập xuống miền Nam bao nhiêu đau thương, tan tác. Chồng tôi tù cải tạo, tôi lao đao từ góc chợ trời này tới chuyến tàu hỏa nọ để nuôi chồng, nuôi con, cuộc sống khổ cực đày đọa như đã tới xuống tầng cuối cùng của địa ngục.
Nhà bị trưng thu để làm Hợp Tác Xã phường, mấy mẹ con tới ở nhờ nhà cô em, chồng nó cũng đi học tập, nó một mình nách ba đứa con thơ… Hoàn cảnh cả hai gia đình vì đùm bọc nhau, lại càng thêm bế tắc.
Đúng lúc nguy kịch thì có những thùng đồ gửi về cho em gái tôi, đề những tên lạ hoắc, địa chỉ thùng đồ gửi đi từ Pháp, và trong thư viết bằng tiếng Anh, không phải chữ con tôi, nhưng nhờ chuyển cho tôi.


Nhờ những thùng đồ gửi đều đặn mà chồng tôi đuợc thăm nuôi đầy đủ. Các con tôi tuy không được đi tới trường học, nhưng tôi thuê người tới dạy cho chúng ngoại ngữ, vì tôi có ý định cho các con tôi vượt biên.
Sau cùng tôi biết được ai là người đã gửi những thùng đồ, chính là con gái tôi. Chồng của nó đã nhờ một người bạn ở Pháp đóng đồ gửi về vì sợ tôi còn giận, từ chối chăng. Khi biết con gái tôi lâu nay âm thầm trợ giúp, cứu cả nhà thì lòng oán hận con không còn nữa. Mẹ con liên lạc được với nhau. Con tôi làm giấy bảo lãnh cho cả nhà, kể cả chồng tôi còn đang tù cải tạo.
Bây giờ thì một số họ hàng, những bạn bè thân quen cũ tìm tới tôi, nhờ tôi hỏi con tôi mách đường chỉ nước để họ được ra đi. Thấy gia đình tôi đầy đủ, tháng tháng đi lĩnh thùng đồ, ai cũng xuýt xoa khen ngợi tôi có cung nhờ con, nhà có phúc được anh chàng rể tốt. Trong số không tiếc lời khen ngợi đó, có những người trước đây đã chê bai, nhìn tôi bằng cặp mắt khinh khi vì tôi có con gái lấy Mỹ.
Chồng tôi ở tù
tới bảy năm, không bỏ thây vì lao động cực khổ là nhờ thăm nuôi đều đặn. Một thời gian ngắn, nhờ biết rõ hai chữ "đầu tiên là tiền đâu" cả gia đình tôi được đi Hoa Kỳ đoàn tụ với con gái.
Phải nói đây là lần đầu tiên tôi gặp Thomas vì trong suốt bao năm tôi từ chối không chấp nhận người con rể này. Rõ ràng là tôi có chút mặc cảm nên không được tự nhiên khi Thomas ôm chầm lấy tôi, gọi "mom" khi đón ở sân bay. Và ngay buổi cơm họp mặt đầu tiên, Thomas đã nói lời xin lỗi gia đình và mong
gia đình bỏ qua những gì đã làm gia đình không vui lâu nay. Con gái tôi dịch lại bằng tiếng Việt, chồng tôi siết chặt tay Thomas, và Thomas mời tôi ly rượu vang đỏ, bập bẹ nói bằng tiếng Việt: "Xin mẹ tha tội cho con…con thương yêu em thiệt lòng…" Tôi đón ly rượu từ trên tay Thomas, lòng không khỏi ngượng ngùng…. Rồi tôi ôm chầm lấy Thomas, ôm chầm lấy con gái, tôi khóc, đó là thêm một lần khóc trong sung sướng, mà được khóc sung sướng thì trong đời một người đâu được mấy lần!
Nước Mỹ thật rộng lớn, thật bao dung. Các con tôi chỉ một thời gian lo giấy tờ, đã vô trường học hết. Chồng tôi học tiếng Mỹ rất nhanh, tuy lớn tuổi , nhưng ông nói, gần hết cuộc đời phục vụ trong binh nghiệp, bây giờ ông muốn làm một học sinh già, ông đi học.
Ở Mỹ, tôi không còn chướng mắt khi thấy một cô gái Việt Nam đi bên anh chàng Mỹ, Trung Hoa, Đại Hàn…Tôi hiểu ra nhiều lắm, con người ở xứ Hiệp Chủng Quốc này không phân biệt mầu da, tất cả đều hòa nhập
vào một xứ sở
để cùng xây dựng cho tương lai con người.
Tôi không còn khó chiụ, mà thật sự vui thích, khi thấy những người trẻ tuổi, da đen, da vàng, da trắng, họ vui vẻ bên nhau, nói chung một ngôn ngữ và cùng nhau làm việc.
Còn tôi, sang tới đây cũng lớn tuổi rồi, tôi cũng không cần vào trường học, nội lo cho một người lẩm cẩm, dở hơi như chồng tôi cũng hết giờ rồi. Ông nói:
"Bà phải học nấu món ăn Mỹ, chớ bắt thằng Thomas nó ăn đồ ăn Việt Nam hoài, nó mất gốc à nhe."
Mất gốc sao được mà mất. Trong miếng đất nhỏ xíu sau vườn, tôi đã đã có những gốc ổi, gốc xoài, đã trồng được nhiều gốc rau răm, rau thơm, rau diếp cá lá mơ…
Còn Thomas, về ăn cơm gia đình, thường nhe răng cười. Có lần nói tiếng Việt "Già cây, giá cây..." Cả nhà không ai hiểu Thomas nói gì. Cho tới khi con gái tôi giải thích "Giả cầy. Giả cầy. Thomas nói món giả cầy của mẹ nấu đấy." Thì ra, nhìn trên bàn ăn có đĩa lá mơ là Thomas đã nói được đúng tên món ăn sắp dọn ra.
Bây giờ thì Thomas nói "giả cầy" đúng luôn cả dấu hỏi, dấu huyền.
LÊ HẢI DƯƠNG

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,661,700
Chương trình Việt Báo Viết Về Nước Mỹ khởi sự từ Tháng Năm năm 2000. Ngay trong những ngày đầu tiên, có bài “Gia Đình Tôi Tới Mỹ” của Nguyễn Thị Phi Phượng. Tác giả ngày ấy vừa định cư Mỹ 4 tháng.
Sau Lễ Mẹ, ngày Thứ Hai 29 sắp tới sẽ là Lễ Chiến Sĩ Trận Vong. Mời đọc thêm một bài viết mới của Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas.
Tác giả bắt đầu tham dự VVNM năm 2015 và được giải danh dự. Bài viết mới nầy là một bút ký viết về đời sống các sinh viên Việt Nam du học ở Mỹ trong lúc Miền Nam bị sụp đổ năm 1975.
Tác giả đã nhận Giải Vinh Danh Tác Phẩm Viết Về Nước Mỹ, 2003 với bài viết “Cái Chăn Mỹ và Con Gái Họ Đinh”, thể hiện nhiều thao thức của người phụ nữ Việt sống qua thời di cư, chiến tranh, di tản, làm vợ, làm mẹ trên đất Mỹ.
Tác giả sinh ra và lớn lên tại thành phố Hội An, Tỉnh Quảng Nam; Cựu nữ sinh Trung Học Trần Quý Cáp, Hội An, niên khóa 1964-1972. Chồng là một quân nhân trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa,
Tác giả là một cựu sĩ quan Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, đã nhận giải tác phẩm xuất sắc Viết Về Nước Mỹ 2006 với truyện kể về hai chàng sĩ quan Mỹ gốc Việt thuyền nhân:
Nước Mỹ đang là mùa ra trường, và ngày 18 tháng Sáu 2017 sẽ là Father's Day in 2017 is on Sunday. the 18th of June (18/6/2017). Xin mời đọc bài Viết về nước Mỹ đầu tiên của Tín Thất Tôn.
Tác giả 44 tuổi, cùng gia đình đoàn tụ tại Mỹ từ 1991, 25 năm trước, khi mới 18 tuổi. Hiện là cư dân Huntington Beach; Nghề nghiệp: Kỹ sư phần mềm cho Northrop Grumman Corpo-ration;
Tác giả tên thật Đặng Thống Nhất, giáo sư hồi hưu. Ông bà hiện là cư dân Brooklyn Park, Minnesota. Ông đã từng dạy ESL và Song Ngữ tại Hệ Thống Giáo Dục Công Lập Minneapolis và Ngôn Ngữ Việt Nam tại Đại Học Minnesota.
Tác giả sinh quán tại Hội An, Quảng Nam, tốt nghiệp Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Cựu tù chinh trị, hiện định cư tại Virginia. Ông góp bài Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua và đã ấn hành 4 tập truyện ngắn.
Nhạc sĩ Cung Tiến