Hôm nay,  

Mother's Day, 2002: Mẹ Ơi, Bây Giờ Thì Con Hiểu Phần Nào…

12/05/200200:00:00(Xem: 154978)
Người viết: Hạ Miên
Bài tham dự số: 2-541-vb80512
Hạ Miên là bút hiệu của một nữ chuyên viên thuế vụ, làm việc cho Sở Thuế ở một tiểu bang xa, ít có dịp “nhai” chữ Việt, “nuốt” tiếng Việt.
Tình cờ gặp Vietbao Online đúng vào cuối tháng Tư, đọc Viết Về Nước Mỹ, nhận lời mời tiếp sức từ Việt Báo, bà bắt đầu viết. Bài đầu, chuyện thuế ở Mỹ. Bài tiếp, hồi ức về 30 tháng Tư. Và lần này, dành cho Mother’s Day, có thể coi là một “tâm bút” về Mẹ và về chính người viết.
Chim đa đa đậu nhánh đa đa
Chồng gần không lấy
mà lấy chồng xa
Mai sau cha yếu mẹ già
Bát cơm ai đỡ,
chén trà ai dâng"
Cadao
Mẹ, con hơn nửa đời mới kiếm được một tấm chồng tử tế để mẹ được nở mày nở mặt với người ta. Ngày con đi mẹ cười vui mà nước mắt tràn mi, chỉ mong con từ đây có lứa có đôi. Con đi làm dâu xứ người, hành trang nghìn dặm là hình bóng mẹ trong tim và hai đứa con riêng tuổi đã 15, 17. Thương mẹ một đời cằn cỗi, hết nuôi con rồi lại nuôi cháu. Con khôn dại dường nào mẹ không nửa câu dằn dỗi, chỉ chở che chăm chút.
Mẹ ơi, Mẹ mong con đến lồng son, được ăn no tắm mát, được cưng chiều, để con chim nhỏ của mẹ cất giọng hót. Nhưng trong cái lồng vàng này, chim đã không hót, nó khóc…Con nhớ Mẹ, nhớ những con chim dại khác, con thương cái tổ chênh vênh, thèm cái bụi cây với bày chim nhỏ líu ríu mỗi ngày…Phải chăng hạnh phúc là nơi trái tim ngự trị, nơi ấy con có mẹ khi khóc lẫn lúc cười"
*
Có người vui hỏi tôi: "Bộ Việt Nam hết người rồi sao em đi lấy chồng xứ khác"" Tôi chỉ thật thà đáp lại: "Không phải đâu, trước khi con sâu hóa bướm, nó trông thật xấu xí, chỉ khi biết tự bay lên, nó mới là bướm".
Tôi là con chim sẻ, chẳng có giọng hót hay như hoàng anh, chẳng có bộ lông rực rỡ như hoàng yến. Chỉ là con chim sẽ, với bộ lông nâu mộc mạc và hai bàn chân nhỏ xíu. Tôi không múa hay như loài công, chỉ biết nhảy nhót tung tăng như đứa trẻ. Tôi không khéo nói như loài két, chỉ biết ngây thơ nhìn, như tôi đang tìm bạn đây. Hãy nhìn vào mắt chim, ở đó bạn sẽ thấy một bầu trời.
Bầu trời của tôi là hai cánh tay mẹ dang rộng, che chở tôi những năm tháng đói nghèo. Bầu trời của tôi là xóm nhà lụp xụp, mương cống, là dòng sông đen nho nhỏ cạnh nhà, nơi lũ trẻ chúng tôi chơi đùa. Bầu trời của tôi không soi bóng xuống mặt hồ mênh mông, cũng chẳng xanh xa tận chân trời. Nhưng tôi yêu mảnh trời bằng cái miệng ly ấy, cái màu đen xám xịt trên vách bếp, mái tôn nham nhở với hàng nghìn ngôi sao giữa buổi trưa hè. Nơi ấy mẹ tôi dạy tôi mơ, mẹ tôi ru tôi bằng tiếng à ơi não ruột, mẹ tôi tảo tần chợ sớm chợ chiều để tôi được đến trường, được biết thế nào là sách vở, chữ nghĩa.
Mười tám tuổi, tháng Tư 1975, người đi kẻ ở, tan nát tình đầu. Con chim sẻ rớt lại
trong giông tố với vết thương,
đứng còn không xong, nói gì đến vỗ cánh. Thêm 20 năm đổi đời -phân nửa cuộc hành trình "đi trong đồng vắng" được tả trong cựu ước- nhìn lại, thấy mình té lên té xuống. Trong cảnh cùng quẫn, chỉ còn bàn tay mẹ đưa dắt tôi đứng lên.
Mẹ nuôi con cho tôi để tôi có thể có thể… dưỡng thương. Đọc sách. Học, học và học. Đó là nơi tôi trú ẩn và từng bước hồi sức. Có lần thấy tôi chỉ là con mọt sách ngờ nghệch đáng tội nghiệp, Mẹ trì triết, "Tao không biết mày học để làm gì."
Mẹ ơi, con học để nghe, để nói, để đứng dậy. Nói bằng tiếng mẹ đẻ ngay giữa quê hương mình không xong, con phải nói bằng tiếng Tầu, tiếng Tây, tiếng Nga, tiếng Mỹ… Phải mất mười lăm năm, tôi mới đi hết một đoạn đường mà người khác có thể chỉ vài ba năm là lướt qua: tốt nghiệp một trường chuyên nghiệp, thêm cái bằng trung cấp ngoại ngữ lớp đêm.
Cuộc đời cuối cùng cũng mỉm cười với tôi, khi tôi được nhận vào làm cho một công ty dầu khí của Anh quốc. Công việc đưa đẩy, một triệu phú người Mỹ xuất hiện. Hơn nửa đời người, chẳng hiểu vì thứ duyên nợ nào, anh ta phải cầu hôn, chấp nhận thêm cái "extra package" là hai đứa con riêng
của tôi.
Tôi mang hai con theo chồng, để lại sau lưng cái dĩ vãng cũ kỹ và tập tục khắc nghiệt nghìn năm của dân tôi. Người Mỹ không câu nệ con ông, con bà và chẳng khẽ khàng hỏi nhau "Trời mưa bong bóng bập bồng, mẹ đi lấy chồng con ở với ai"" con theo mẹ là chuyện tất nhiên, trừ khi người mẹ chẳng cần con. Nhưng, khi con chim đã đủ lông đủ cánh nó có quyền bay đi để lớn lên, nó phải tập bước đi trên đôi chân của mình. Có con ngã rồi đứng dậy, có con chẳng bao giờ đứng lên được. Nơi đây thành công hay thất bại thật sự là cái giá của mỗi người tự mình phải trả cho… Freedom.

Ba mẹ con tôi đến Mỹ một ngày cuối tháng ba, sáu năm trước. Thành phố Portland đẹp và lạnh. Ở đây mưa gần như suốt năm, chỉ khác mưa không tầm tã rồi tạnh như mưa ở Saigon. Portland trong mắt tôi chẳng đẹp kiêu sa, nhưng lạïi hờ hững như người đàn bà quá thì, như nụ cười tắt nhanh trên môi người hàng xóm, ồn ã chào xã giao nhau, quay đi rồi là xong chuyện. Ở đây người ta không biếu nhau nải chuối hay bưng qua nhà nhau bát canh rau muống. Ở đây người ta sống bằng luật và lệ, rõ ràng và thực dụng.
Nhà tôi ở trên đồi, nhìn xuống dòng sông Willamette. Xa xa về phía Đông là ngọn Mount Hood quanh năm tuyết phủ trắng. Căn nhà có ba mươi sáu cái cửa sổ lớn liền nhau, kết theo kiến trúc vịnh (bay area) cho chúng tôi một bức tranh với nét đẹp như ghép bởi thiên nhiên và bàn tay con người. Từ những ô cửa này, trong mắt tôi downtown Portland như con cua lớn đang bò sang bên kia sông bằng những cái càng khổng lồ. Và cũng từ những ô cửa này, ngày ngày tôi nhìn xuống cuộc đời, xa xa bên dưới, khóc âm thầm.
Câu ca "Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ có thương con chồng" dùng được cả hai chiều, đúng ở bất cứ đâu. Tôi thành mối đe doạ về quyền thừa kế cho lũ con riêng của ông chồng. Chồng tôi cư xử công bình, phải phép với hai đứa con riêng của vơ, nhưng ông và chúng cũng khó thương nổi nhau. Và chính các con tôi đã thay đổi cách nhìn về mẹ nó.
Khi con gái tôi đủ 19 tuổi, như những cô Mỹ con khác nó bảo tôi:
"Mẹ, con muốn dọn ra ngoài và sống tự lập."
Tôi sững sờ và bối rối nói hỏi nó:
"What do you really mean" Do you understand what are you saying""
"Yes, mom."
Tôi biết con tôi chẳng thật hiểu, nó chỉ nói theo kiểu người ta hay nói ở đây. Cái khác và cái khó cho thế hệ trẻ Việt Nam như các con tôi là chúng chẳng là Mỹ, cũng không còn là Việt. Chúng như những cây non, bị bứng ra khỏi đất quá sớm, được đem trồng một vùng đất tưởng như tốt hơn, nhưng thường thì cây non sẽ héo đi, thẩm thấu vào đất, hiểu và chọn lựa chất dinh dưỡng thích hợp, tự điều tiết nhịp sống theo điều kiện có khi không thể, để sống trở lại, làm một thứ cây, tuy không đổi giống, đổi tên gọi, nhưng thật ra chúng không thuần túy và cái cây người trồng mong muốn hay ít nhất hy vọng như vậy.
Tất nhiên là tôi không bằng lòng. Tôi không muốn mất con. Tôi ích kỷ, đúng. Bà mẹ nào cũng ích kỷ vì quá thương con. Nhưng trong cái ích kỷ của người mẹ Việt Nam, nếu tôi được phép nói như vậy, là lòng yêu con vô bờ. Như mẹ tôi, như bao nhiêu người mẹ khác, tôi cho con mình tất cả, làm tất cả vì con, chứ không vì ai khác. Có lẽ tôi sai, nhưng ít nhất tôi hiểu và thấm nhuần lời dạy "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử" của nho giáo Việt Nam. Tôi sẵn sàng tuyên chiến với ông chồng nếu anh ấy "đụng" đến gia đình tôi (tôi muốn nói cha mẹ đẻ, con và anh em tôi). Tôi cũng đã có một thời tuổi trẻ xáo động, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ đến tự do, hay chí ít hai chữ tự do theo nghĩa mới này.
Chiến tranh dường như đã nổ ra, tuy âm thầm nhưng quyết liệt. Tôi thật sự bị sốc. Các chuyên viên tâm lý gọi đó là hiện tượng "culcure shock". Tôi thấy đau nhói trong tim và bẽ bàng. Cái lồng vàng không làm các con chim non quên bầu trời xanh ngoài kia.
Sáng hôm sau như mọi sáng, tôi đứng nhìn con gái tôi đi bộ xuống đồi. Ôi, con của tôi bé bỏng làm sao. Cái áo len đỏ chỉ làm nó trông nhỏ hơn, xinh hơn. Vai đeo ba lô, lon ton giữa hai hàng anh đào bên đường, nó còn quay lại nhìn tôi, vẫy vẫy.
Chiều đến tôi vừa nấu cơm vừa ngóng nghe tiếng xe bus dừng dưới đường, và dõi để nhìn thấy cái dáng quen thuộc chui ra từ mấy cái hộp biết di động ấy, leo lên đồi ngước nhìn tôi như hỏi: "Mẹ ơi, cơm chín chưa". Nhưng chim đã chẳng bay về tổ từ chiều ấy, từ ngày ấy. Nó chỉ lặng lẽ bỏ đi, bay đi. Chim không biết nói, và chẳng muốn nói cho mẹ biết khi nào thì nó sẽ không về nữa.
Tôi đã khóc, những sáng rồi chiều, thu rồi hạ. Tôi nhớ con, tôi không thể hiểu được tại sao khi lớn chim không cần mẹ nữa. Tôi không muốn hiểu. Có lẽ tôi đã già rồi, tôi sợ không dám bay vào khung trời rộng như nó, sợ đường xa, sợ giông tố, nên từ nơi này, từ cái lồng son, con chim sẻ mộc mạc xưa đang khóc. Nó nhớ mẹ, nhớ con, nhớ quê hương và nhớ cái xóm nghèo ngày xưa.
Mẹ ơi, bây giờ thì con hiểu phần nào, tại sao con yêu mẹ.
HẠ MIÊN

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 859,167,131
Vân Hải Nguyễn Xuân Hùng là Cựu Sĩ Quan Tiểu Đoàn 20 Chiến Tranh Chính Trị (Khoá 16 Thủ Đức)
Tên thật: Trịnh Thị Đông. Sanh quán: Bình Dương, Việt Nam. Nghề nghiệp: Giáo viên cấp 2, môn Anh Văn. Hiện cư ngụ tại thành phố Fort Smith, tiểu bang Arkansas, Hoa Kỳ.
Trần Nguyên Đán là bút hiệu của Mục sư Lữ Thành Kiến, từng quản nhiệm Hội Thánh Maryland, miền Đông, rồi Fort Worth, Texas. Sau giải vinh danh tác giả Viết Về Nước Mỹ năm 2007, ông nhận thêm giải Việt Bút 2009 và là thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết Viết Về Nước Mỹ từ 2010. Ngoài Việt Báo Online, nhiều thơ và truyện của ông hiện có trên tạp chí văn chương trên mạng internet, như da mầu, tiền vệ. Sau đây là bài viết mới nhất.
Anne Khánh Vân, sinh năm 1974 tại Saigon, tốt nghiệp kinh tế tại Pháp, hiện sống và làm việc tại miền Đông Hoa Kỳ. Năm 2007, cô nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ với tự truyện “Duyên Nợ Với Nước Mỹ.” Chỉ ít tuần sau đó, cô “chạy” đủ giấy tờ đón ba má từ Việt Nam dự lễ phát giải. Sau chuyến du lịch, hồ sơ bảo lãnh gia đình được hoàn tất và từ 2011, ba má, và vợ chồng người em trai đã chính thức định cư, đoàn tụ. Hiện nay, cô là một thành viên trong ban điều hành Mount Vernon, di sản của vị Đệ nhất Tổng Thống Hoa Kỳ George Washington, tại Alexandria, Virginia.
Tác giả là một cựu chiến binh Mỹ từng đóng quân ở Biên Hoà và kết hôn với một phụ nữ Việt. Viết Về Nước Mỹ, ngày 18 -12-2012 phổ biến bài viết trực tiếp bằng tiếng Việt đầu tiên của ông, kể chuyện tình 40 năm trước giữa chàng thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ và một cô gái Việt. Với bài "Hành Trình Tiếng Việt của Một Người Mỹ", Sáu Steve Brown đã nhận Giải Việt Bút mang tên Bà Trùng Quang năm đầu tiên, 2013. Ông bà nay có 7 người con, hiện ở Ohio. Sau đây, thêm một bài mới của ông Sáu.
Tác giả một mình vượt biển giữa thập niên 80 khi còn tuổi học trò. Dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, cô nhận giải danh dự 2001. Bốn năm sau, nhận thêm giải vinh danh tác phẩm 2005.
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà hiện có tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ mười chín, 2017-08. Sau đây là bài viết thứ 12 trong năm.
Tác giả Tâm Chánh là người con gái của Trung Tá Từ Tôn Khán, Tỉnh Đoàn Trưởng Tỉnh Đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, Huế, thời 1968. Ông bị Việt Cộng bắt và sát hại trong Tết Mậu Thân tại Huế. Hiện nay Tâm Chánh là Vice President of the Real Estate Entitlement Development Incorporation tại Southern California.
Tác giả là cư dân Minnesota, đã nhận giải vinh danh tác giả Viết Về Nước Mỹ 2008. Với những bài viết thuộc nhiều thể loại đề tài, cô là một tác giả rất được bạn đọc yêu mến.
Chủ Nhật tuần này là Father’s Day 2018 tại Hoa Kỳ. Mời đọc bài viết về thân phụ của một nhà giáo. Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt Bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Nhạc sĩ Cung Tiến