Hôm nay,  

Mùi Thơm Ngát Lòng

29/05/200200:00:00(Xem: 163473)
Người viết: Lê Hải Dương
Bài tham dự số: 2-547-vb20529
Bà Lê Hải Dương, 65 tuổi, tới Mỹ năm 1992 theo diện ODP, hiện cùng gia đình con cháu cư trú tại Irvine, Nam California. Bài viết của bà kể chuyện nấu nướng các món ăn Việt Nam trong một khu xóm Mỹ.

Bà Dinh lấy mớ quần áo đi giặt. Hồi còn ở Việt Nam, đây là một công việc nặng nhọc. Ở tỉnh nhỏ, nhà nghèo, mỗi lần giặt quần áo, phải chờ lúc sáng sớm tinh mơ, đội thau quần áo đem xuống bến sông. Xà phòng đá cứng ngắùt, mùi nồng khó hửi, xát xà phòng, vò áo đều bằng tay. Lúc đem xả xuống nước, nếu sơ ý, nước cuộn áo ra xa là trôi mất luôn. Ở miền Trung, vào mùa đông thì đỡ, có nước mưa, nhưng cũng ba chầy bốn búa lắm, vì phơi, hong ba bốn ngày, đến khi khô còn bị nổi mốc.
Còn bây giờ, sao dễ dàng quá. Bỏ quần áo vào máy giặt, cho bột giặt vô, đậy cái nắp lại, chừng tiếng đồng hồ sau, lại bỏ vào máy xấy.
Đứa con gái dặn má nhớ bỏ cái tờ giấy trong cái hộp nhỏ vô máy xấy cho quần áo thơm.
Nhưng hơi đâu mà chờ chớ, còn cả tiếng đồng hồ. Bà Dinh soạn tủ đồ ăn, mớ đồ mới mua hôm cuối tuần ở một chợ Việt Nam. Vô chợ, thiệt không thiếu một thứ gì ở quê nhà, mà thứ nào cũng tươi, cũng là hạng nhứt, thì hạng nhứt mới xuất khẩu. Nhớ chớ, hồi ở bển, có con tôm bự vậy mà ăn sao. Ra chợ, quen biết lắm người bán mới đưa ra mớ tôm dấu kỹ, đầu đuôi đã đỏ lòm, ươn sình, có mùi rồi. Còn thì hàng xuất khẩu xong, còn lại mớ đầu tôm, bán cho dân ăn… Chợ ở đây, ê hề quá, bữa nào đi chợ cũng mua đầy một xe, nhưng đem về nhà, tính nấu thì đứa con gái ngăn:
"Thôi mẹ ơi. Nấu mấy thứ đó hôi nhà lắm. Mà mấy đứa nhỏ ăn không quen đâu. Rồi cũng đem đổ."
"Không ăn thì để mẹ ăn, sao đổ."
"Mẹ nấu mấy thứ đó, có ngày hàng xóm họ gọi pô-lít."
Chuyện này thì bà Dinh biết. Một buổi tối, sau mười giờ, bà coi phim Tàu vặn hơi lớn chút thôi, hàng xóm đã gọi phàn nàn với cảnh sát. Cảnh sát tới, đứa con gái nói chuyện, rồi dặn bà từ nay vặn ti-vi chỉ vừa nghe thôi, còn sau mười giờ thì phải tắt đi. Hàng xóm Mỹ kỳ cục lắm, cái gì cũng gọi pô-lít hết trơn, mà bà, hễ thấy pô-lít là run lên rồi, cái bịnh này bà mang từ Việt Nam sang, hồi đó mà thấy công an tới nhà, hổng đái ra quần sao!
Còn đồ ăn cứ để trong tủ lạnh, trong ngăn đựng đồ khô, lâu lâu đứa con gái dọn dẹp lại bỏ vào bao rác đem đổ. Con gái bỏ thùng rác thì cứ việc bỏ, bà tha về thì cứ việc tha. Làm như vô chợ, thấy mấy thứ quen thuộc đó, không mua thì không đi về nhà được. Bà có tiền già, ở với con gái có một phòng khỏi trả tiền, thì cái công chăm sóc nhà cửa, nấu nướng thì cũng đâu vào đó. Nhưng nấu các món mà chúng nó dặn kìa. Không cho nấu thì cứ mua về nhìn cho đã, có sao đâu. Thiệt tình, nhiều khi nấu cháo trắng thèm chút mắm kho quẹt chết được.
Đứa con gái có hù bà không đây. Ở hàng xóm cũng bay sang nhà ba cái mùi gì đó hàng ngày mà con gái nói là chi-dơ gì đó. Có khi nào mình hổng thích cái mùi đó mà mình càm ràm người ta không đã chớ! Chắc con gái bà thấy bà dốt, dọa bà thôi. Bữa lên chùa, gặp bà bạn, bả nói:
"Tui có đánh chết tui cũng ăn đồ ăn của mình chớ mấy món tụi nó nấu hay mua về tui nuốt hổng trôi."
Bà lắc đầu:
"Bên này bây giờ rau đay đậu hột gì đều có bán đủ. Cá bống thệ, bống dừa, thiếu cha gì chị ơi. Đi vô chợ ra là một xe đầy nhóc hà."
Phải. Bà Dinh cũng ưa đi chợ lắm. Vô trỏng, đi gần mấy bà còn gửi thấy mùi dầu bạc hà, khuynh diệp, cả mùi dầu gió bác sĩ Tín nữa mới là hay. Nhiều thứ mùi, nhiều tiếng nói làm nhớ quê muốn chết.
"Rồi chị làm sao nấu""
"Nấu trong nhà tuị nó kêu hôi nhà phải hôn. Đó, bà nào cũng kêu trời kêu đất là xấp nhỏ nó cấm nó đoán, tủi thân lắm kìa…nhưng mình có cách…"
"Cách gì""
"Thì mua cái bếp ga bỏ sau vườn, muốn nấu gì thì nấu, ai nói."
Bà Dinh về đề nghị với con gái, con gái lắc đầu:
"Thôi mẹ. Tay chân mẹ lóng cóng, xài bếp gas có bữa nó phật lửa cháy mặt, còn cháy luôn nhà. Thôi, hổng được."Sân sau. Trống trải như vầy nó còn bay mùi sang hàng xóm lẹ hơn. Người ta nấu được sao mình không được" Hơn nữa, mình nấu trong nhà, đóng kín cửa bếp, vặn cái máy hút cho nó hút ra ngoài là xong.
Bà Dinh lấy món nầy, cất món kia, rồi tay bà cầm hũ mắm ruốc Huế. Cầm lòng không đặng, bà khui hộp, hít lấy hít để cái mùi quen thuộc cả một thời ở quê hương đó. Rồi bỗng nhiên thèm ăn một món, thèm không chịu được. Đó là món thịt bằm kho mắm ruốc với ớt, sả bằm mà hồi còn nhỏ, người mẹ đã bón cái mùi đó vào trong máu thịt của bà rồi. Làm sao bà có thể cưỡng lại bàn tay mở ngăn kéo lấy con dao ra vườn cắt sả.


Hồi xưa mẹ bà cũng vậy, sả phải xắt lắt mỏng, rồi bằm nhỏ. Ớt trái chín ươm đỏ xắt lát, hình như thiếu một chút gừng. Người xưa tính toán cái gì là chính xác, có chút gừng thì ăn món gì cũng không sợ đau bụng. Miếng thịt ba chỉ xả đá mà vẫn tươi, láng lườm. Chừng nửa tiếng, mọi thứ đã xong, chỉ còn bắt chảo, phi hành mỡ cho thơm,
rồi bỏ thịt vào xào, sau đó cho tất cả các thứ vào, có chút ớt bột để lấy màu và thêm cay. Bà Dinh hăm hở xào nấu, vặn lửa nhỏ cho thấm đều, một lát, cái mùi vị quen thuộc đã đậy trong máu bà, trong vị giác và bà cứ phải nuốt nước miếng liên tục…
Hình ảnh người mẹ, bà ngoại, bà nội của xâùp nhỏ, nay không còn, nhưng nụ cười và ánh mắt ngời lên niềm thương mến vui tươi mỗi khi đuợc con cháu khen thức ăn ngon, như còn hiện rất rõ trước mắt bà. Bà Dinh nhớ tới thủa thiếu thời, mỗi buổi chiều sương xuống dày kịt, không thấy đường đi, nhưng nhận ra đã về gần nhà vì cái mùi sả ớt, thịt kho mắm ruốc bay ra tận đầu con hẻm. Bếp điện đâu có khói, mà mắt bà cay và trào nước mắt….
.
Thình lình có tiếng chuông kêu. Giờ này đâu ai tới nhà chớ" Hai vợ chồng con gái đi làm, xấp nhỏ ở trường… Bà mở cửa, ra coi. Thấy bên ngoài đứng một dọc dài, ba bà Mỹ cao lớn, dềnh dàng. Bà hoảng kinh, muốn thụt lui đóng cửa, nhưng bà không làm đuợc. Một bà Mỹ nói gì đó, đưa tay, nhíu mày. Rồi một bà Mỹ khác chen lên nói nữa. Còn bà Mỹ thứ ba, ở sát nhà bà chớ đâu. Mỗi sáng ra tưới cây, bà hay nhón gót nhìn qua vườn bên, thấy bà Mỹ này dẫn một con chó nhỏ đi qua đi lại trong vườn. Bà vội vàng thụt đầu xuống liền, vì bà Mỹ này hay hỏi thăm, mà hỏi gì thì bà Dinh đâu có hiểu. Một lần ra xe với con gái, bà già này cũng ra xe, nhìn qua, đưa tay vẫy vẫy và chào một câu tiếng Mỹ dài thiệt dài. Cũng may bữa đó có cô con gái nói đỡ cho bà, còn bà, chỉ nhe răng ra cười, đưa tay vẫy vẫy lại. Cái bà già Mỹ này, chắc nhiều tuổi hơn bà, mà lên xe lái đi vèo vèo, người gì mà giỏi quá là giỏi.
Hai
bà Mỹ kia mặt mũi khó đăm đăm, khuya tay nói một hồi cùng nhìn nhau, lắc đầu, bỏ đi. Duy có bà Mỹ ở sát nhà đứng lại, nhìn bà Dinh bằng ánh mắt thân thiện, có chút thông cảm.
Vừa lúc đó, bà Dinh nhận ra cái mùi thơm "ngát lòng" của bà bốc lên dữ dội và như có mùi khét. Thôi nguy rồi, bà đã quên đóng cửa bếp, quên vặn lửa nhỏ. Cháy nhà. Bà lật dật chạy vào, quên cả đóng cửa.
Bà tắt được lửa, bỏ cái chảo mắm ruốc xuống. Nhưng chảo mắm ruốc đã cháy đen. Như con lật đật, Bà chạy lui chạy tới, rồi lại chạy ra cửa.
“Are you OK"”
Bà Mỹ hàng xóm hỏi thăm. Chỉ còn một mình bà đứng lại. Hai bà Mỹ xấn xổ kia đã bỏ đi.
“Are you OK" Every thing OK"” Bà Mỹ hàng xóm vẫn còn vẻ lo lắng, chờ đợi coi có thể trợ giúp được gì. Bà Dinh vừa sợ, vừa xấu hổ, nhưng cũng chỉ biết... cười. Thấy không còn gì nguy hiểm nữa, bà Mỹ vỗ vỗ lên vai bà Dinh như an ủi, nhìn bà và cười hiền dịu, rồi chỉ tay ra dấu về.
“Thank you. Thank you very, very...”
Bà Dinh nói không đúng âm nhưng bà Mỹ vẫn hiểu. Hai người chia tay. Băng qua mảnh vườn cỏ ra lề đường, bà Mỹ còn quay lại nhìn bà Dinh cười cười đưa tay vẫy vẫy rồi mới quay người đi.
Đóng cửa, vào nhà, cái mùi thơm ngát lòng của chảo ruốc cháy nồng nặc khắp nhà. Làm thế nào bây giờ" Bà lên lầu, đóng hết các cửa phòng. Xuống bếp, mở hết các cửa phía sau, mở máy hút, mở cả cái quạt trần làm kiểng ở phòng gia đình. Bà đã làm đủ cách,
vậy mà khi hai vợ chồng đứa con gái và lũ cháu về thì chúng kêu ầm lên.
Con gái cằn nhằn:
"Đã nói rồi mà mẹ không nghe con."
Bà Dinh cúi đầu, im lặng như chịu lỗi. Thời nay, cái gì cũng ngược lại hết trơn. Cái câu con gái nói là hồi trước bà dùng để dạy con, nay thì ngược lại.
Tốùi hôm đó bà hàng xóm Mỹ qua thăm, nói chuyện với cô con gái và thỉnh thoảng nhìn bà Dinh, cười thân thiện. Lúc bà về rồi, cô con gái cũng bật cười nói với bà Dinh:
"Bà hàng xóm Mỹ qua xin dùm cho mẹ, làm như con sẽ la mẹ vậy. Bà nói bà hiểu và thông cảm mẹ lắm, bà cũng vậy, cái thời trước của bà với thời nay của bà ấy cũng không còn dính dáng gì tới nhau nữa…"
Bà Dinh muốn sáng mai ra vườn để nhón chân qua, mạnh dạn nói với bà một tiếng Gút mo ninh, Hao A Du, Thanh Khiu... Nói cho bằng hết mấy tiếng Anh rời rạc mà bà biết.
Bà hàng xóm Mỹ hay thật. Bả biết hết. Ừa, mình ngu, dốt nát thì con cái nó la. Cũng đâu có sao nếu lòng mình dừng chấp.
LÊ HẢI HƯƠNG

Ý kiến bạn đọc
03/04/201804:22:27
Khách
thà dọn nhà đi , chứ sống quá mệt mõi với hàng xóm không thông cãm , mỗi nước có nhiều món ăn đặc sãn riêng cũa nước đó ....đến món ăn cũng bị họ xoi mói ,thèm thuồng kg dám ăn , phãi lén lút , thấy khổ quá
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 864,825,945
Với kiểu “viết như nói”, tác giả đã góp nhiều bài viết và nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2005. Cô tên thật là Trần Thị Ngọc Trâm, sinh năm 1965 tại Saigon, thứ nữ một gia đình H.O. Công việc đang làm: nhân viên xã hội tại Salem Oregon. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả sinh năm 1940, cựu sĩ quan VNCH, khoá 12 SVSQ Thủ Đức, Giảng Viên Anh ngữ trường Sinh Ngữ Quân Đội, cựu tù chính trị, đến Mỹ năm 1991 theo diện HO9, hiện định cư tại Greenville South Carolina. Từ năm 2002, ông đã góp nhiều bài Viết Về Nước Mỹ giá trị. Sách đã xuất bản: "Hành Trình Về Phương Đông." Sau đây là bài viết mới của ông.
Tác giả đã góp nhiều bài viết giá trị và có tên trong danh sách chung kết giải thưởng Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIÌ, 2012. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biển đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA.
Tác giả là một nhà thơ quân đội. Trước 1975, ông là một sĩ quan hải quân, từng tu nghiệp tại Mỹ. Sau năm 1975, ông trở thành người tù chính trị và định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Ông cũng tham dự nhiều sinh hoạt cộng đồng tại San Diego và góp nhiều bài tham dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ những năm đầu tiên. Năm nay, Phạm Hồng Ân là tác giả vào danh sách chung kết giải thưởng Việt Báo 2012. Sau đây là bài viết mới của ông.
Tác giả họ Vũ, cư dân Bắc California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là “Giấc Mơ Thiên Đường”, truyện ngắn về một thảm cảnh gia đình Việt tị nạn. Tiếp theo, “Trường Đời: Học Làm Chồng” và “Số Đào Hoa” cho thấy tài kể chuyện duyên dáng của tác giả. Sau đây là bài viết mới nhất.
Có một lúc nào đó trong thời thơ dại, bạn tôi mơ trở thành vận động viên thể dục (gymnastics Olympian ) đi dự thi đại hội thể thao của thế giới được tổ chức mỗi bốn năm.
Tác giả đã góp bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên từ 2009. Sang năm 2011, với bài “Nằm Trong Hộp Gỗ, Trông Lên” và nhiều bài đặc biệt khác, ông là tác giả được bình chọn vào danh sách chung kết Viết Về Nước Mỹ 2012. Bài viết mới sau đây tiếp tục cho thấy cách viết linh hoạt vui vẻ của tác giả.
Tác giả Nguyễn Quang sinh năm 1947 tại thị xã Quảng Trị, cư dân Nam California, là chủ tịch Hội Ái Hữu Quảng Trị. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông từ năm 2007, kể về người thầy dạy Việt văn tại trường trung học Nguyễn Hoàng, Quảng Trị gần nửa thế kỷ trước. Sau đây là bài viết thứ hai, vẫn là chuyện kể về những thầy bạn cũ.
Tác giả là cư dân Austin, Texas; Công việc: y tá trưởng trong một bệnh viện thành phố, đã góp nhiều bài viết sống động và nhận giải vinh danh tác giả Viết về nước Mỹ 2006.
Tác giả là một nhà báo quen biết tại Dallas, từng dự phần biên tập, chủ biên các báo Ca Dao, tuần báo Trẻ, Thời Báo... Phan cũng từng góp nhiều bài viết về nước Mỹ giá trị và đã nhận giải danh dự Viết Về NướcMỹ. Bài mới của Phan là chuyện đi coi nhà để mua tại Dallas.
Nhạc sĩ Cung Tiến