Hôm nay,  

Hãng May Ở El Monte

18/10/200200:00:00(Xem: 124757)
Người viết: LIÊN AN

Bài tham dự số: 3015-662-vb51016

Tác giả Liên An tên thật là Trần Thị Phương Liên, sinh năm 1954, hiện cư trú và làm việc tại Alhambra, Nam California. Đây là bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà.

+

Đọc được bài báo của chị Ngọc Hà -cùng sinh sống tại thành phố Alhambra như tôi- trên mục "Viết Về Nước Mỹ" tôi rất thích thú và ngưỡng mộ chị. Đây là lúc tôi còn trong thời gian ở không chờ xin việc, sau hơn 8 tháng cùng chồng và 2 con đến đất Mỹ.

Vốn chữ nghĩa của tôi chưa đầy một lá mít. Nhờ bài báo của chị Ngọc Hà bắt nhịp, tôi bỗng thấy mình cũng có nhu cầu viết. Và thật lạ là lần đầu tôi viết báo, sao tôi thấy thật tự nhiên và không khó khăn lắm như tôi nghĩ. Với bài báo này, tôi thật sự không dám xem nó là sự thi thố chữ nghĩa, mà chỉ xin một lần được trải lòng mình ra.

Cũng như gia đình chị Ngọc Hà, gia đình tôi hay bất cứ gia đình nào đến đây. Sau lưng họ đều có những gian nan, cơ cực lo lắng cho tương lai con cái mình. Mà lý lịch của cha chú mình là rào cản, mà nếu vượt qua được nó cũng bị biến thái và méo mó ít nhiều.

Chồng tôi là một sĩ quan không quân. Sau 7 năm trong trại cải tạo, trở về nhà với nhiều bỡ ngỡ e dè. Hai vợ chồng tôi vào cuộc mưu sinh khó khăn như bao người khác ở một xã hội còn quá ban sơ. Khởi đầu bằng việc ngồi gói từng viên kẹo 100 cục mới được 1 đồng lúc sắp sanh đứa con đầu lòng. Rồi đến lúc anh chị tôi từ Mỹ gởi tiền về (Mẹ và anh chị tôi đã di tản trước ngày 30/4/75 trừ ba tôi và tôi). Được một thời gian, ba tôi mất. Và vì cần thêm vốn tôi đã bán căn nhà của cha mẹ mà không ngờ đó là trở ngại lớn trong chuyến xuất cảnh theo diện H.O vào năm 1992 của chúng tôi. Họ đã yêu cầu phải giao lại nhà trống trước khi lên máy bay. Thế là chuyến đi bị đình lại. Bước chân ra khỏi phòng cách ly Tân Sơn Nhất tôi không khóc được như tôi nghĩ. Mà khi nhìn hai đứa con ôm ba lô ngơ ngác nhìn cha mẹ, tôi mới hiểu được lòng đau như cắt là thế nào.

Thất vọng và chán chường rồi cũng phải dẹp qua. Để lại bắt đầu cho đời sống không lối ra. Xã hội đầy những bất công và tràn lan tệ nạn. Gia đình chúng tôi cũng thế, trôi theo và ít nhiều ảnh hưởng từ đó. Tôi sống dật dờ nhìn con cái lớn dần, với những nhận thức ngày càng rộng hơn về sự chật vật từ tinh thần đến vật chất. Đã nhiều lần chúng phải nhìn cảnh người cha nghiêng ngả đầy mùi bia rượu về nhà, với người mẹ luôn có đôi mày cau có, những lời gấu ó của cha với mẹ. Gia đình hoàn toàn không giống như trong bài luận mà chúng bắt buộc phải viết ra ở nhà trường.

Sau hơn 9 năm sống như thế, chúng tôi lại nhận được giấy báo từ Tòa đại sứ Mỹ gởi báo chuyến đi trong 6 tháng tới. Thế là chúng tôi lại một lần nữa chuẩn bị cho chuyến đi. Bao âu lo cũng tan khi ngồi trên phi cơ đang rời khỏi phi đạo. Cũng là lúc tôi mong được trả lại những thời gian buồn thảm đã qua, chỉ mong đem theo cho mình những chân tình mà mình có được.

Nhìn 2 con thích thú với những mới lạ và gương mặt đăm chiêu lo lắng của chồng với cuộc sống mới sẽ đến, tôi vẫn thấy mọi người thật đáng yêu. Tựa đầu vào thành ghế, nhắm mắt lại, thở một hơi thật nhẹ và nghĩ đến những người ruột thịt sẽ gặp lại nhau sau gần 30 năm xa cách.

Mọi việc đều đến như tôi đã nghĩ, cũng như chuẩn bị cho những khó khăn sắp đến. Chúng tôi đã biết ít nhiều qua những người đến trước. Nhưng tôi cũng phải se lòng khi nhìn con vác balô lần đầu tiên vào sân trường. Lo cho con mình với vốn sinh ngữ quá mỏng, phải khó khăn nhiều để hòa nhập được với thế giới quá khác lạ này.

Qua vài ngày, rồi vài tháng, tôi tạm yên tâm về con cái để quay về vai trò cột trụ của chúng tôi. Chúng tôi đã cầm nắm được những tờ dola đầu tiên trên đất Mỹ bằng công sức của hai vợ chồng khi cưa hai cây thông cao hơn 6m trên một ngọn đồi ở nhà cho một người Mỹ. Nhớ lúc trở về khi đêm đến lại không tìm được ra lối về nhà. Nhiều lần bị lạc như thế đã trở thành kinh nghiệm cần phải có, để cười khi nhớ lại.

Rồi thì công việc làm này đưa đến công việc khác, những giúp đỡ của người thân và bè bạn. Tìm ra đống tiền ở đâu cũng là mồ hôi đôi khi sôi nước mắt. Những lần nhìn chồng về nhà với quần áo, đầu tóc đầy bụi cát bê tông, tôi vẫn thấy anh ấy đáng yêu hơn gấp vạn lần khi còn ở quê nhà vất vưởng say sưa ở bậc cửa thềm nhà. Dĩ nhiên đôi chân mày tôi không có cớ gì để cau lại như trước. Đó là ấn tượng tốt đẹp về nước Mỹ đầu tiên đối với tôi.

Cuộc sống ở Mỹ có thể nói là quần quật vất vả thật, nhưng trước mắt tôi, hàng ngày, nhìn từ góc đường hè phố nào, tôi cũng thấy việc làm và làm việc. Còn nơi quê nhà của chúng ta, không cần phải tìm đâu xa xôi, chỉ cần ngó lại gia đình của chính mình, là đã thấy ngay sự trì trệ. Công việc thì ít, thời gian rảnh quá nhiều, đổ dồn vào những cơn say sưa. Bước chân ra ngoài đầy những quán bia ôm, karaokê ở ngõ ngách nào cũng có. Dìm hiện tại tương lai mình ở những nơi đó, liệu con cái tôi có dễ dàng thoát qua được những tệ nạn đó không nếu còn ở lại.

Cho dù nơi đây, trên đường đến trường, tôi và các con tôi vẫn thấy vài người homeless, tôi có thể mạnh miệng mà bảo chúng rằng không lo học hành mai sau sẽ khổ như họ vậy. Chứ nếu ở quê nhà, nếu với câu nói đó, tụi nó sẽ trả lời cho mình bằng những ví dụ cụ thể nó nhìn biết hàng ngày như cha chú nó có học nhưng có được việc làm đâu.

Tôi không nghĩ nước Mỹ là thiên đường nhưng với hơn nửa đời người đã qua đi trên đất nước của chính mình, dù là còn quá sớm để nhận xét những tốt xấu mình còn chưa biết hết ở nơi đây, tôi vẫn thấy một niềm kỳ vọng cho con cháu tôi, những người chung quanh tôi.

Như con đường buổi chiều dưới cửa sổ nhà tôi vàng ánh nắng chiều với dòng xe xuôi ngược sau một ngày bươn chải mưu sinh tìm về nơi mái ấm, chính những nỗ lực học hành, làm việc tận tụy đang đưa con người tới hạnh phúc.


Trần Thị Phương Liên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 866,598,768
Đáng lý ra thì nó đã được gọi bằng một cái tên Việt-Nam cho khỏi “Mỹ hoá”! Nhưng là vì hai đứa anh lớn của nó “bàn ra tán vô”trước khi con bé được sinh ra. Đại-khái là dùng tên Mỹ để sau đi học cho dễ gọi, chứ như hai đứa anh lúc qua Mỹ đã sáu bảy tuổi, đi đến trường bằng tên Việt bình thường, mấy tháng đầu nhiều khi
Tác giả Anne Khánh-Vân, 33 tuổi, hiện đang sống tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Sau khi tốt nghiệp Kinh Tế Kế Toán ở Pháp, cô sang Mỹ, vừa làm vừa học thêm về Management Information System. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của cô là chuyện về một cựu chiến binh Mỹ gặp gỡ trên chuyến bay đi Việt Nam .
Tác giả Trương Tấn Thành, cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục năm 2000, hiện trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA. Ông là một tác giả rất nhiệt thành đóng góp bài vở cho giải thưởng Viết Về Nước Mỹ và đã được trao tặng
Năm 2000, sau gần 25 năm cày bừa chăm chỉ trên đất Mỹ, hai vợ chồng già đã làm một chuyến qui cố hương đáng giá, đi từ bắc vô nam. Sau chuyến đi này, tôi vẫn thường ra rả bên tai chồng rằng: nì, Ôn ơi, kể từ nay mỗi năm tụi mình chỉ nên kéo cày 11 tháng, còn một tháng thì kiếm chỗ đi chơi, kẻo già rồi cố quá có ngày
Tác giả cho biết ông sinh năm 1934 tại Cần Thơ, hiện là cư dân Austin , Texas . Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là “Những Người Tuổi Sửu”, kể chiuyện “đi cầy tại Mỹ” cho thấy tấm lòng của các bậc cha anh với thế hệ con em. Bài mới lần này là câu chuyện về một bà mẹ thuyền nhân phấn đấu với hoàn cảnh, một mình
Sáng sớm xe chạy, trưa đoàn dừng chân ở thị trấn Solvang ăn trưa, tiếp tục hành trình đến lâu đài Hearst, toà lâu đài trơ vơ trên núi, 2 đứa mua vé, mỗi vé $20 dollars vào xem, chờ xe ở trạm, Phụng bỏ 25cents vô kính viễn vọng để xem lâu đài trên núi, mùa đông, toà lâu đài chìm trong sương mù dày đặc, xe đón
Tác giả Ai Cơ Hoàng Thịnh là một nhà giáo tại tiểu bang Victoria , Úc. Bà là người đã vận động đưa được tiếng Việt vào chính khoá và chương trình thi Tú Tài Úc, từ 1983 tới nay; Đã được Úc vinh danh Citizen of the Year 1994 (Thành phố Footscray) & Teacher of the Year 1997 (Tiểu bang Victoria). Bài viết về nước Mỹ
Tác giả Ai Cơ Hoàng Thịnh là một nhà giáo tại tiểu bang Victoria , Úc. Bà là người đã vận động đưa được tiếng Việt vào chính khoá và chương trình thi Tú Tài Úc, từ 1983 tới nay; Đã được Úc vinh danh Citizen of the Year 1994 (Thành phố Footscray) & Teacher of the Year 1997 (Tiểu bang Victoria). Sau đây là bài đầu tiên
Nhạc sĩ Cung Tiến