Hôm nay,  

Giải Nobel Hòa Bình 2002

29/10/200200:00:00(Xem: 168019)
Người viết: HỒ PHI

Bài tham dự số: 3025-673-vb21028

Giải Thưởng Viết Về Nước Mỹ năm thứ hai có bài viết “Thình lình đui mắt” của tác giả Hồ Phi. Bài viết thật cẩn trọng, sâu sắc, hữu ích nhưng tác giả không kèm theo chi tiết tiểu sử. Mãi tới nay, mới thấy thêm một bài viết mới cùng ký tên Hồ Phi, với sơ lược tiểu sử như sau: Hồ Phi, 67 tuổi, ở FV, Orange County. Cựu giáo sư, Vietnam. Cựu VGS.12.4, D.A.O. Saigon. Thuyền nhân đến Mỹ 10/1976. Cựu EW2. DPSS Los Angeles County. Hy vọng hai bài viết là cùng một tác giả Hồ Phi .

+

Giải Nobel Prize do nhà hóa học Alfred Nobel người Thụy Điển sáng kiến ra.

Nhờ đã dùng chất Nitroglycerine (C3H5NO3) chế ra thuốc nổ mìn (dynamite) bán ra khắp thế giới cho người ta dùng để nổ nát đá, nổ núi làm đường sá, ông trở nên giàu có. Trước khi qua đời, ông di chúc cho Nobel Foundation ở Stockholm, cứ mỗi 5 năm một lần, trích di sản của ông để làm giải thưởng bằng tiền mặt cho bất cứ ai trên thế giới có thành tích xuất sắc về các lãnh vực Vật lý, Hóa học, Y khoa, Văn chương, và Hòa bình Thế Giới. Số tiền thưởng tuy không lớn lắm, nhưng ai được giải nầy rất
vinh dự, được thế giới ngưỡng mộ.

Năm nay giải Nobel về Hòa Bình được trao cho Cựu Tổng Thống Mỹ Jimmy Carter. Ông là người đáng lẽ được giải nầy từ lâu khi ông còn làm Tổng Thống Mỹ (1977-1981), vì Ông đã thành công khi dàn xếp cho Thủ Tướng Begins của Do Thái và Thổng Thống Anwar Sadat của Ai Cập là hai nước thù lâu đời bắt tay và ký hòa ước, chấm dứt sự thù nghịch. Nhưng vì lý do chính trị lúc đó, giải nầy được chia cho hai ông Begins và Sadat. Đến nay, hơn 20 năm sau, Carter mới nhận được vinh dự nầy.

Giải thưởng tới tuy chậm nhưng không muộn, vì người nhận có được thêm thời gian để chứng tỏ là ông xứng đáng hơn.

Đúng vào nhiệm kỳ Tổng Thống của ông Carter, thế giới đã chứng kiến cuộc vượt biển lớn lao chưa từng có của thuyền nhân Việt Nam.

Trong cương vịø Tổng Thống Hoa Kỳ, chính ông Carter đã hỗ trợ cho chính sách tiếp nhận trợ giúp thuyền nhân Việt Nam không chỉ trong phạm vi nước Mỹ mà trên toàn thế giới. Nhờ vậy mà thuyền nhân và người tị nạn Việt Nam ngày nay đã trở thành những cộng đồng an lạc trên nhiều quốc gia.

Riêng tại Hoa Kỳ, chính tổng thống Carter đã giúp mở rộng quota nhận thêm nhiều thuyền nhân tị nạn vào nước Mỹ.
Còn đối với dân
Mỹ nghèo, cũng như đối với đám tỵ nạn, ông chủ trương giúp đở dễ dàng. Chính ông đã ký lệnh giản dị hóa cách cho phiếu thực phẩm (Food Stamps). Trước kia dân nghèo phải mua bằng tiền mặt những phiếu thực phẩm nầy với giá rẻ hơn trị giá của số phiếu được cấp phát. Ông Carter đã giúp đổi lại là ít nhiều gì cứ cho thẳng (như bây giờ), chứ không còn phải mua lôi thôi nữa. Vì có nhiều người quá nghèo, không có tiền để mua, thành ra không được hưởng gì trong chương trình nầy.

Việc giúp đở học bỗng cho dân nghèo cũng dễ dàng nên con em tỵ nạn được tốt nghiệp đại học, cao học đông đảo. Có những gia đình tỵ nạn đến Mỹ với hai bàn tay trắng cùng hàng chục đứa con mà chúng vẫn ăn học đầy đủ và đã trở thành bác sĩ, luật sư, master, kỹ sư. “Dẫu nghèo cũng thể vui cao học."

Sự nghiệp đóng góp cho mục đích hòa bình thế giới của ông Carter không chỉ trong cương vị cầm quyền.

Sau khi hết làm tổng thống, Ông đã đi nhiều nước, giúp làm môi giới để giải hòa các tranh chấp quốc tế, và nội bộ ởø Trung Mỹ, Phi Châu, Á châu, và các đảo quốc ở đại dương hay khởi mào cho các cuộc thương thuyết hoặc thiết lập bang giao. Ở đây nếu đem kể hết ra cũng rất dài dòng, quá khen hoàng tử tốt áo.


Ông rõ thực là một chiến sĩ luôn tranh đấu không mệt mõi cho hòa bình, cho nhân quyền, cho tự do dân chủ ở khắp mọi nơi trên thế giới.

Ở tuổi già, ông không ngại sống gần gủi với giới lao động nghèo thuộc đủ màu da khác nhau. Ông thường tình nguyện đi vác cây, đóng đinh làm sườn nhà, lợp mái nhà cùng với thợ thuyền cho dân vô gia cư
trong tiểu bang Georgia và ở cả Châu Phi nữa, theo tinh thần đoàn hòa bình (Peace Corps) của Mỹ.

Ông lại là người rất sùng đạo, ông thường dạy trường kinh thánh chúa nhật ở nhà thờ. Không chỉ dạy suông, ông còn hết lòng thực hành giáo lý chính yếu và cao cả của đạo Chúa là bác ái vị tha, yêu thương đồng loại.. Ông sống một đời đạo đức và thánh thiện. Ở Mỹ, người nào lên làm lớn thường là cái đích để bị bươi móc, vẹt lông tìm vết tối đa đủ thứ lem nhem. Nhưng ở ông, người ta không bới móc được điều gì, chỉ vớ vẩn lấy việc ông trồng đậu phụng (peanut) để dùng chữ peanut nầy diễu chọc mà thôi (chữ "nut" ở Mỹ có nghĩa lóng là điên đần). Ông thường làm vì nhân đạo, vì nghĩa, không vì lợi. Ông không đi diễn thuyết suông để lấy tiền thù lao, nhưng ông làm việc thưc tế, đi hòa giải chuyện thế giới, góp trí, góp công vào những vấn đề an sinh xã hội, và can đảm cất lên tiếng nói của sự thật và lẽ phải. Cái hơn người ở chỗ là Carter cố công vì mục đích nhân đạo vị tha, chứ không vì lợi lộc hoặc chính trị gì nữa của một cựu tổng thống Mỹ đã về già.

Cựu tổng thống Jimmy Carter được giải thưởng Nobel rất xứng đáng.
Ta có thể so sánh Jimmy Carter thời hiện đại, hết lòng thực hiện đường lối Công Bình Bác Ái, Nhân Đạo Vị Tha cao cả của Chúa Jesus với Mặc Tử thời loạn Xuân Thu Chiến Quốc hơn 2000 năm xưa bên Trung Hoa. Mặc tử đã chủ trương và thực hành thuyết "Kiêm Ái Vị Tha" yêu thương mọi người, trong lúc thế gian giả dối, vị kỷ, và tàn ác. Hai ông nầy làm việc vì nghĩa, vì lợi ích cho người đời, không vì lợi ích riêng cho cá nhân mình. Cả hai cùng cố sức:

Dàn xếp trăm phương về một lối,
Khiến người chung sống giữa yêu thương.

Trong một bài phú, Nguyễn Công Trứ, sĩ phu Việt Nam đầu thế kỷ 19,
đã viết một câu biểu lộ thái độ nên có của kẻ sĩ: "Phù thế giáo một vài câu thanh nghị.". Có ý nói là để giúp đời hướng dẫn việc hay tốt, kẻ sĩ cần phát biểu một vài lời bình luận ngay thẳng, nói lên sự thật và nhận định về giá trị phải quấy, hay dở, khen chê. Thấy người hay tốt, mình phải nói là hay tốt, phải chân thật khen ngợi để khuyến khích. Thấy việc ác xấu, mình phải nói là ác xấu, phải can đảm chê trách, để khuyên răn chung.

Do những lẽ trên, và với lòng biết ơn của một trong những thuyền nhân Việt Nam từng hưởng sự trợ giúp của nước Mỹ thời ông làm Tổng Thống, tôi cảm hứng và mạo muội viết bài thơ sau đây để chúc mừng và kết thúc bài nầy:

MỪNG TỔNG-THỐNG CARTER

Mừng ông được thưởng Giải Nobel,
Danh dự năm châu tiếng dội rền,
Quốc tế hận thù, ra hóa giải,
Dân bần không sở, cất nhà lên,
Yêu người, đòi hỏi nhân quyền khắp,
Mến Chúa, nêu cao chiùnh đạo bền.
Đáng mặt vĩ nhân,gương đức độ,
Hòa bình thế giới, cố gầy nên.

HỒ PHI

Chuyển ra tiếng Anh như sau:

English version of the above:

CONGRATULATION TO PRESIDENT CARTER

Glad you are awarded with the Nobel Prize,
A global honor, that sounds loud everywhere.
International hatred, you helped neutralize.
Poor homelessness, you made shelters provided.
Loving people, you demand human-right wherever,
Respecting God, you promote His just cause forever.
You are well a great man, an example of virtue.
For World peace, you're never tired of hard pursuit.

PHI HO

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 864,939,597
Những ngày sau 30 tháng Tư, 1975 chắc chắn là những ngày kinh hoàng nhất cho rất nhiều gia đình tại miền Nam Việt Nam. Nhưng đối với một số người, những ngày ấy kéo dài tưởng như vô tận, đến mười mấy năm, mà mỗi ngày là một thế kỷ của nhọc nhằn và mỗi đêm là một trường canh của kinh sợ.
Tác giả tên thật Ngô Thị Bạch Huệ, định cư ở Mỹ từ 1980, cư dân Orange County, đã được trao tặng giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2001, với bài "Người Mỹ Di Động". Đây là một tự truyện đầy tính lạc quan: 7 lần dọn nhà, 12 lần đổi job, không ngán. Công việc thứ 12 của cô là thành lập công ty consulting firm của riêng mình, viết sách technical bán trên AMAZON.COM và sách được sắp hạng Best Seller. Sau đây là bài viết mới nhất của cô.
Tác giả là một nhà giáo, từng là Chủ tịch Hội Ái Hữu Ninh Thuận, hiện đã về hưu và là cư dân Riverside, Nam Cali. Ông đã góp nhiều bài viết đặc biệt cho giải thưởng Việt Báo từ năm đầu tiên, và nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2009. Sau đây là bài mới của tác giả.
Tác giả tên thật là Nguyễn Tân, tuổi 60', cựu sĩ quan hải quân, cư dân Glendale, CA. Ông tham dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, từng nhận giải và hiện là thành viên "Ban Tuyển Chọn Chung Kết" của Giải Thưởng Viết Về Nước Mỹ. Sau đây là bài mới góp vui của ông.
Tác giả đã góp cho Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12 nhiều bài viết đặc biệt. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biên đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA. Bài viết mới của tác giả là một tự truyện gia đình thương yêu.
Tác giả là cư dân San Diego, cựu sĩ quan VNCH. Trước 1975, tại Saigon, ông là Phóng Viên Hình Ảnh Chiến Trừơng Đài THVN9 và đồng thời là ký-gỉa các nhật báo Hòa-Bình, Xây Dựng, Tự Do... Tới Mỹ trong đợt đầu Di Tản Tị Nạn Cộng Sản 30 tháng 4 năm 75. Hiện nay, ông là một giới chức chỉ huy nhiều chuyên viên kỹ nghệ nặng trong ngành đóng tàu Hoa Kỳ, thuộc hãng Đóng Tàu Nassco, General Dynamics tại San Diego, Ca, USA.
Tác giả dự viết về nước Mỹ từ năm 2000, nhận giải danh dự và liên tục góp nhiều bài viết giá trị, để hỗ trợ và cổ võ việc Viết Về Nước Mỹ. Trước năm 1975, ông là nhà giáo, quân nhân QLVNCH, khóa 18 Thủ Đức. Định cư tại Mỹ, sau nhiều năm làm việc cho Sypris Data System Los Angeles, ông hưu trí cuối 2009. Sau đây là bài viết mới nhất của ông. 
Tác giả là một nhà văn, nhà báo, đồng thời cũng từng là nhà giáo, nhà hoạt động xã hội quen thuộc với sinh hoạt văn hóa truyền thông tại quận Cam. Ông đã góp nhiều bài viết về nước Mỹ giá trị và sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả tên thật Trần Thị Hậu. trước 75 học ở Trưng Vương, Văn Khoa, từng tham gia viết bài cho các Đặc San của trường, các báo Thiếu Nhi, Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc. Sau 75 làm ở Trường Kinh Tế Kế Hoạch và Công ty Thủ Công Mỹ Nghệ.
Tác giả đã góp một số bài Viết Về Nước Mỹ đặc biệt. Ông là cựu sĩ quan VNCH, khoá 8/68 Sỹ Quan Trừ Bị Thủ Đức, phục vụ tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, bị bắt tại Ban Mê Thuột ngày 14 tháng 3 năm 1975; Đến Mỹ tháng 4/2005, hiện cư ngụ tại Carlsbad, California. Sau đây là bài mới của ông.
Nhạc sĩ Cung Tiến