Hôm nay,  

Nỗi Buồn Biết Ngỏ Cùng Ai

25/03/200300:00:00(Xem: 172313)
Người viết: BÙI XUÂN ĐÁNG
Bài tham dự số 3155-762-vb20324

Tác giả Bùi Xuân Đáng 75 tuổi, cư trú tại Orange County, đã góp cho giải thưởng Viết Về Nước Mỹ nhiều bài viết giá trị. Bài viết lần này là một truyện ngắn được cho biết là đã viết từ lâu. Nỗi buồn lo của nhân vật cụ giáo đã thành việc chung: chuyện nói và học tiếng Việt, chữ Việt hiện đang được nhiều thế hệ cùng lo lắng góp sức. *

Từ ngày đặt chân lên đất Hoa kỳ, chưa bao giờ cụ giáo Khánh được vui vẻ, ngoại trừ hôm gặp lại con cháu tại phi trường sau 7 năm xa cách.
Tại sao cụ lại không vui và nét mặt lúc nào cũng đăm chiêu buồn bã"
Hoàn cảnh gia đình của cụ thực ít ai bì được. Cụ vừa từ Saigon sang đây theo chương trình ODP, tiếng Việt có nghĩa là Ra đi trong trật tự. Sức khoẻ của cụ rất khả quan so với cái tuổi 72. Con trai cụ, kỹ sư cho một hãng lớn nhất trong khu vực. Con dâu của cụ là một chuyên viên điện tóan cho một hãng vào bậc nhì, ba trong thành phố. Lợi tức khá cao, vợ chồng hiện làm chủ một căn nhà 4 phòng ngủ, có hồ bơi và vườn rộng ở phía sau, tọa lạc tại phía Bắc thành phố nơi tập trung những người giầu có. Ba đứa cháu nội : hai trai một gái đều thông minh, dĩnh ngộ. Đứa lớn sinh tại Saigon và 2 đứa tại đây. Con gái và con rể của cụ cũng ở gần đó, đều có công việc vững chắc, nhà, xe đầy đủ. Các cháu nội cũng như cháu ngoại thật là dễ thương và hết sức yêu mến cụ.
Thế mà cụ giáo Khánh vẫn buồn.
Có lẽ cụ buồn vì còn nhiều con cháu, thân nhân và bạn hữu còn ở Việt nam chăng" Không phải như vậy, di cư vào Nam năm 1954, cụ bà bị bạo bệnh mất đi vào năm 1961, để lại cho cụ gà trống nuôi con : một trai, một gái. Anh em cụ đã chết từ khi còn nhỏ, chỉ có một nguời chị gái nhưng đã mất từ ngày quân Pháp nhẩy dù xuống Thái nguyên. Họ hàng thân thích đều ở ngoài Bắc và tuyệt vô tin tức kể từ ngày cụ rời bỏ hàng ngũ kháng chiến trở về với quốc gia để tìm tự do. Cụ không còn giây mơ rễ mái gì với những người còn ở laị. Mặc dầu những bạn bè, hàng xóm láng giềng của cụ đều là những người tốt, đã giúp đỡ cụ rất nhiều, khi người con trai cụ đã cùng vợ con bỏ nước ra đi vào năm 1975. Hai năm sau đến lượt cô con gái cùng chồng đã vượt sóng gió hiểm nghèo đến miền đất tự do và phồn thịnh này. Sang đây cụ cũng gặp nhiều bạn cũ, nhưng sau một vài lần trò chuyện, cụ không còn tìm thấy ở họ những nét quen thuộc của người bạn tâm giao năm xưa. Họ khoe nhà, khoe cửa, khoe con làm việc lương cao, khoe cháu học giỏi nói tiếng Mỹ như gió. Họ làm thơ ca tụng đời sống mới, ngợi khen sự sung túc của gia đình mình, châm biếm người này, người khác. Nói chuyện đến quốc gia, dân tộc họ chẳng thèm nghe hoặc giả lại dùng toàn những danh từ đao to búa lớn, như mình là một bực vĩ nhân, nhưng họ chưa làm một việc gì từ trong nhà cho đến xã hội để chứng tỏ là họ có lòng yêu nước thương nòi.
Sau lễ Giáng Sinh và Tết dương lịch, cụ giáo Khánh lại còn buồn hơn nữa. Ngoài trời tuyết phủ trắng xóa. Gió bấc thổi thổi ào ào, rít lên tưng hồi qua những đám cây khẳng khiu, trơ cành trụi lá. Hàn thử biểu chỉ 22 độ dưới 0. Lò sưởi chạy liên hồi cũng không sao làm cho cụ được ấm lòng chút nào. Mở máy truyền hình coi được vài phút rồi lại tắt đi. Cụ mở máy nghe nhạc, giọng hát Thái Thanh cao vút diễn tả lúc người chinh phu trở về trong bài Hòn Vọng Phu III :
Nhìn qua con đường làng cũ, quanh co mấy buổi tà dương mới trông thấy làng. Nhớ nước non sao xuyến tấc lòng. . . Từ khóm cây ngôi mộ ven đường, từ mái tranh. . .
Nước mắt chan hòa, cụ không còn can đảm nghe tiếp nữa. Tâm hồn bồi hồi chan chứa, cụ nằm vắt tay lên trán, thả hồn về dì vãng,về những năm tháng trôi qua, từ khi còn thơ ấu đến lúc trưởng thành. Hình ảnh những ngày đã qua lần lượt hiện ra trong trí nhớ : này là ngôi nhà thờ cũ của gia đình, kia mái trường tiểu học thân yêu, rồi những ngày kháng chiến chống Pháp gian khổ, ngày cụ thành hôn, ngày vĩnh biệt người bạn đời, ngày chờ mong đứa cháu nội ra đời, rồi những ngày sống cô đơn, cực khổ bên nhà. . .
Bây giờ cụ hầu như mất gần hết: Quê hương, họ hàng, bè bạn đã xa ngoài vạn dậm. Nhưng con cháu cụ chẳng vẫn còn đó và quây quần bên cụ hay sao" Con cháu của cụ tuy vẫn còn nhưng con cụ đã đổi khác, con dâu của cụ đã đổi khác. Ngay đến cả thằng cháu nội yêu quý của cụ cũng đổi khác rất nhiều.


Ngày còn ở Saigon, ông cháu cùng nhau suốt ngày quấn quýt bên nhau. Cháu ở đâu là có ông ở đó. Cụ giáo cưng chiều đứa cháu còn hơn là đứa con trai của cụ khi còn nhỏ. Cháu là viên ngọc quý, là niềm an ủi và là nguồn vui bất tận của tuổi già. Khi sang đến đây, người đầu tiên cụ tìm kiếm trong đám con cháu ra đón cụ tại phi trường là đứa cháu khôi ngô tuấn tú của cụ. Cụ lên tiếng hỏi người con trai :
- Thằng Tuấn đâu"
Một đứa trẻ mập phì bước ra từ phía sau người cha. Cụ giáo tiến lại ôm lấy đứa cháu yêu quý. Cụ hỏi :
- Cháu có nhớ ông không"
Đứa trẻ ngơ ngác nhìn cụ, không trả lời nhưng vẫn bám chặt lấy tay ông nội nó.
Cụ lại hỏi :
- Năm nay cháu học lớp mấy rồi"
Tuấn vẫn ấp úng không trả lời. Hai vợ chồng người con nhìn lẫn nhau, người nọ ra hiệu người kia, sau cùng người con trai đành thưa với cụ :
- Cháu không nói được tiếng Việt.
Cụ giáo bàng hoàng hỏi lai :
- Thằng Tuấn quên hết tiếng Việt rồi sao"
Ngày ở Saigon tuy nó mới lên 4, nhưng cụ vẫn tự hào là cháu cụ thông minh và nói sõi như người lớn. Vậy mà chỉ mới có 7 năm. . .
Nhìn bức hình hai ông cháu chụp ở Thảo Cầm Viên năm nào, Cụ giáo thẫn thờ trong dạ. Cụ nhớ hôm đó đứa cháu nói năng bẻo lẻo không lúc nào ngơi miệng. Gặp gì nó cũng hỏi và hình như nó muốn biết hết những gì đã trông thấy, đặc biệt nhất là những muông thú và cây cỏ.
Bây giờ khi ở nhà, nó gần như muốn tránh mặt ông nội nó, viện cớ bài vở quá nhiều. Kỳ nghỉ lễ vừa qua, ông cháu cũng đi chung với nhau, song đứa trẻ phải khổ sở lắm mới nói được một vài chữ tiếng Việt, rồi lại sổ ra một tràng tiếng Anh. Đứa trẻ muốn gần ông, muốn nói chuyện nhưng không sao diễn tả được những điều muốn nói. Còn khi ông nó nói, nó hoàn toàn không hiểu ông nó nói gì.
Hồi mới đến Hoa Kỳ, cha mẹ nó sợ mình nói không thông thạo, sợ con mình không nói được tiếng Anh cho nên học ngày, học đêm và trong nhà chỉ nói tiếng Anh. Những đứa trẻ sinh ra sau, học tiếng Anh từ khi mới tập nói. Suốt 7 năm qua, thằng Tuấn ít khi nghe cha mẹ nó nói tiếng Việt, dù là nói chuyện với nhau. Mãi cho đến khi ông nó sắp sang hai vợ chồng mới quay trở lại dùng thứ ngôn ngữ mẹ đẻ. Vì vậy chính cha mẹ nó nhiều khi còn ngượng nghịu, huống chi là nó.
Cụ giáo muốn dậy cháu tiếng Việt, nhưng vợ chồng người con không muốn, sợ làm cho đứa trẻ phân tâm ø sao lãng việc học ở trường. Cụ thương cháu nhưng giận con vô tả. Chỉ mới có 7 năm mà đứa cháu yêu dấu của cụ đã gần như một người xa lạ. Người con rể lại còn bênh vực và bồi thêm :
- Ông bắt cháu học tiếng Việt làm gì" Tiếng này vô dụng ở đây, mà dù cho đám trẻ có học được đi chăng nữa, thì cũng chỉ vài ba năm rồi lại quên hết.
Cụ giáo thấy buốt nhói trong tim, lặng thinh không nói, cất bước vào phòng nằm nghỉ. Cụ xót xa đau đớn, nghĩ rằng đời mình sắp tàn, dù cho cụ có cố gắng thuyết phục được con trai, con rể dạy cho cháu được dăm ba chữ tiếng Việt, họa chăng cũng chỉ còn dăm ba năm nữa. Đến khi cụ nhắm mắt suôi tay, con cháu của cụ lại trở về với cái ngôn ngữ xa lạ này. Cụ buồn cho thân phận của mình, buồn cho cảnh nước mất nhà tan. Cụ cảm thấy hổ thẹn và có tội với tổ tiên khi thấy đàn con cháu dần dần trở thành người khác giống. Cụ lẩm bẩm :
- Nghìn năm đô hộ giặc Tầu, trăm năm đô hộ giặc Tây, mặc dù Tây Tầu đã trăm phương ngàn kế mà vẫn không sao hủy diệt được cái ngôn ngữ của ông cha để lại. Mà bây giờ chỉ mới có 7 năm, hừ chỉ mới có 7 năm. . .
Từ đó cụ giáo buồn bã, biếng ăn, bỏ ngủ, biếng nói, biếng cười. Cả ngày cụ không ra không vào, chỉ ở trong phòng khép kín. Cụ hết đứng lại nằm, hết thở ngắn lại than dài. Con trai, con gái, con dâu con rể nhìn cụ ái ngại. Lũ trẻ nhìn nhau im lặng chứ không nói cười ồn ỹ như trước.
Mãi cho đến ngày mồng một Tết năm Giáp Tý, con cháu quây quần chúc cụ an khang trường thọ, cụ vẫn trầm ngâm yên lặng. Nhưng đến khi thằng Tuấn đại diện cho cả nhà dâng phần quà biếu, mắt cụ bỗng nhiên vụt sáng và ngồi thẳng dậy. Hai tay run run cụ đón nhận tập sách mỏng ngoài bìa đề 5 chữ :
Sách học vần quốc ngữ.
Vội vàng rút cặp kính lão ở túi áo ngực, trịnh trọng đeo lên và từ từ mở rộng trang sách. Bàng hoàng súc động, cụ nhìn mấy giòng khi xưa mờ mờ và nhoè nhoẹt qua hàng nước mắt.
Nhưng rồi lạ lùng chưa, cụ giáo bỗng thấy hàng chữ quen thuộc dần dần biến đổi thành những chữ gì lạ hoắc. Cụ vừa kinh ngạc, vừa tức giận, giật mình tỉnh giậy. Thì ra chỉ là một giấc chiêm bao.
Không biết năm tháng còn lại của cụ có còn kịp nhìn thấy giấc mơ thành sự thật.

Bùi Xuân Đáng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 861,931,605
Hơn tuần nay tình hình chiến sự ở miền nam Lebanon vẫn tiếp tục sôi động, kể từ khi máy bay Do Thái xâm phạm lãnh thổ Lebanon để truy kích các mục tiêu của bọn khủng bố Hezbolla, sau khi bọn này bắt cóc hai người lính Do Thái, rồi liên tục pháo kích vào lãnh thổ của họ. Nhằm bảo vệ tính mạng của công dân Mỹ sinh
Họp mặt phát giải thưởng và ra mắt sách “Viết Về Nước Mỹ tuyển tập VI” sẽ được tổ chức tại Little Saigon vào chiều Chủ Nhật, 27-8-2006. Nhân dịp này, ban điều hành Giải thưởng Việt Báo trân trọng mời quí vị tác giả đã góp bài Viết Về Nước Mỹ và thân hữu tham dự 2 sinh hoạt đặc biệt:
Không biết tại số phận hẩm hiu hay tại không có duyên nợ, hơn cả nửa đời người hắn vẫn không có được một mảnh tình vắt vai. Sang Mỹ vào cái thuở nam thừa nữ thiếu, đốt đuốc tìm hết cái thành phố lạnh ngắt lạnh ngơ này cũng chỉ có vài ba cô gái Việt nam đếm được trên đầu ngón tay, muốn với tới các
Có lẽ tôi sanh ra dưới một ngôi sao xấu, lại “đầu thai lầm thế kỷ” -nói theo thơ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, đồng thời cũng là một giáo sư văn chương nổi tiếng của trường Chu Văn An. Cuộc sống vốn đã chẳng xuôi chèo mát mái, nên phận tôi phải ba chìm bảy nổi tám cái long đong.... Tôi có Mẹ cũng như không, nên theo Cha sống với Mẹ ghẻ
Biển Dừa là bút hiệu của một kỹ sư 31 tuổi tại Arizona. Tựa đề đầu tiên của bài viết này là “Cái Nóng Tàn Nhẫn,” ghi lại tâm trạng của một người nữ trong trận dịch nóng tháng Bẩy, mong được ai đó “lau dòng nước mắt nóng cho cô bằng chiếc khăn tẩm hơi lạnh.” Nhưng nước mắt mới đó đã bốc hơi mất tiêu, làm sao lau kịp" Hy vọng sau “nước mắt bốc hơi”
Danh tính đầy đủ của tác giả là Khiet M Phan, cư dân cao niên tại San Jose. Nguyên cựu sĩ quan không quân VNCH, cựu tù cộng sản, định cư theo diện H.O., tác giả kể là ông đã có 15 năm ở Mỹ, 12 năm đi làm đóng thuế, bây giờ thì tháng tháng lãnh lương hưu. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là những mảnh hồi ức vui.
Năm mới đến Mỹ (1996), tôi có viết bài "Những Nhận Định Khác Nhau Về Cuộc Sống" đăng trên báo Việt ngữ Sacramento; Nguyên do từ câu nói của một bạn học tại trường Sacramento City College: "Nước Mỹ là Thiên Đường của tuổi thơ; Là Chiến Trường của thanh niên, và là Địa Ngục của người già". Lúc bấy giờ tôi cũng như người
Thảm cảnh đây tiếp sau bao thảm cảnh đã phủ lên dân tộc, nước non này. chưa ngừng ư cuộc nội chiến hôm nay" Để lớp trẻ ngày mai xây dựng lại, những đổ nát, mà cha anh đành bất lực lớp người trí thức phải khoanh tay Đó là lần đầu tiên tôi biết đến Chú Hoành em trai út của Ba, qua những câu thơ chú đề tặng khắc trên bia mộ anh trai
Thật tình tôi không rành chữ nho nhưng tôi được chồng tôi giải thích cho tôi câu trên có nghĩa la "cái xui xẻo không tới một mà nó tới nhiều lần". Đúng là y như vậy đó bà con! Cách đây cỡ một tháng chồng tôi đi làm về vẻ mặt buồn buồn nói với tôi ngay khi vừa bước vào cửa: - Mình có tin buồn em à. Anh bị lây ốp năm học tới!
Hôm thứ Hai, thị trường cổ phần tương đối dậm chân tại chỗ tìm hướng đi sau một tuần bị xuống nhiều, với dầu thô xuống giá vì hy vọng sắp ngừng chiến tranh bên Trung Đông. Về kinh tế, mức sản xuất kỹ nghệ toàn quốc tăng 0.8%
Nhạc sĩ Cung Tiến