Hôm nay,  

NgƯỜi ChẾt TrỞ VỀ

01/06/200300:00:00(Xem: 127726)
Người viết: TUYẾT TRINH
Bài tham dự số 3217-815-vb60530

Tác giả Tuyết Trinh, cư trú tại Nam California, lần đầu tham dự Viết Về Nước Mỹ bằng một hồi ký về người anh trai cựu sĩ quan và cảnh sát Việt Nam Cộng Hoà. Sau đây là bài viết của bà.
*

Nhìn TV chiến sự Iraq hàng ngày thấy những tù binh Mỹ tôi nhớ đến anh trai tôi, nhớ mùa hè năm 1972.
Anh trai tôi Trịnh Đình Thông khóa 22-Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, năm 1972, anh là Trưởng chi Cảnh Sát Quốc Gia quận Lộc Ninh. Tôi viết bài này với lòng thương nhớ anh, nhớ khi anh “trở về từ cõi chết.”
Ngày 7/2/72 khi VC lấn chiếm quận Lộc Ninh, có tin dữ về: anh tôi bị mất tích. Bố mẹ, chị em tôi và toàn thể bà con nội ngoại, gia đình hai bên bạn bè thân thích tất cả đều bàng hoàng, xúc động, nhất là mẹ tôi và cô tôi.
Không ngày nào mẹ không khóc và thắp nhang cầu nguyện cho con trai được thoát chết, trở về với gia đình. Đáp lại sự nguyện cầu của mẹ, chỉ thấy toàn những tin thất thiệt. Nào anh tôi bị bắn chết, nào sắp được trao trả về trong những đợt trao trả tù binh.
Hàng ngày sau giờ làm việc và có khi tôi phải nghỉ làm để nhờ người quen đưa đến những nhà thương, quân y viện, trại trao trả tù binh để kiếm tìm anh tôi, may ra anh tôi có bị thương cũng còn có cơ hội được về với gia đình. Rồi một hôm bố tôi đem về một số tiền lớn. Bố nói với mẹ lãnh tiền tử của anh tôi, mẹ tôi hét lên bảo mẹ tôi không giữ tiền đó, mẹ chỉ muốn thấy anh tôi trở về. Bố tôi đề nghị lập bàn thờ anh tôi, mẹ tôi cũng bác đi, mẹ tôi vẫn hy vọng anh tôi còn sống. Cuối cùng bố tôi đem hết số tiền đó nhờ nhà chùa giúp cho những người di tản từ các vùng có đánh nhau về tạm trú ở trong sân chùa. Với những người này quần áo cũ, 1kg gạo, 1 chai nước mắm là điều quý giá cho họ lúc tản cư, chạy loạn.
Thời buổi loạn ly, gia đình lại hối thúc tôi nhận lời cầu hôn của một chàng lính mà tôi thương. Ngày đám cưới tôi, mẹ tôi và tôi khóc như mữ sa, mọi người ngạc nhiên nhưng rồi hiểu ra rằng vì nguyên nhân thiếu anh tôi. Ngày 30/4/75 gia đình tôi cũng di tản đi tìm đến bên bờ tự do nhưng rồi lại vì anh tôi, bố mẹ tôi nói chúng tôi đi trước bố mẹ ở lại may ra anh tôi còn có nơi để trở về, vì bố mẹ tôi vẫn còn hy vọng anh tôi còn sống sót. Tất cả lại kéo nhau về ngôi nhà cũ.
Nửa năm sau ngày CS chiếm miền Nam, gia đình tôi đã tuyệt vọng thì được tin anh tôi còn sống và ở trong trại giam Thủ Đức. Lúc đó chồng tôi đang trong trại cải tạo Long Khánh, tôi thì mới sanh cháu thứ nhì được mấy ngày, cả nhà vội vàng gửi cháu cho người hàng xóm, đi xe đò lên thăm anh tôi, lên tới nơi tại cổng trại giam họ hỏi giấy phép thăm nuôi của phường mới được gặp. Cả nhà chưng hửng ra về thất vọng. Hôm sau bố tôi nói để bố tôi xin phép đi một mình thử trước đã. Ròng rã thêm gần 3 năm (2 năm 9 tháng) anh tôi vẫn tiếp tục "học tập cải tạo." Hàng tháng, mẹ tôi lại chắt chiu giỏ xách nắm tôm khô, gỏi cá khô, gói đường, lon mỡ lên nuôi anh tôi. Dù là cực khổ nhưng mà mẹ vui vì anh tôi còn sống. Ngày anh tôi được thả về, sau khi được gọi học tập tốt, lao động tốt để trả xong "nợ máu" anh tôi được tha về. Cả gia đình tôi lại khóc lóc, bây giờ là khóc vui mừng vì anh tôi còn sống trở về từ cõi chết.
Sau một thời gian anh tôi lại phải đi kinh tế mới. Vì không được phép ở thành phố, thuộc thành phần ngụy quân, ngụy quyền.


Khi chính phủ Mỹ có chính sách nhân đạo cứu vớt những người cải tạo và gia đình họ sang Mỹ hưởng chế độ tự do, thì anh tôi lại lừng chừng vì nửa muốn đi nửa lại thương cha mẹ già (lúc này cha mẹ tôi đã già yếu lắm rồi) nếu bỏ đi thì thương cha mẹ không ai chăm sóc lúc tuổi già sức yếu. Tới khi quyết định vì bố mẹ tôi lại một lần nữa hy sinh cho con, anh tôi lại kém may mắn khi chính phủ Mỹ ban hành luật mới thời gian 3 năm tù binh của anh tôi không kể chỉ tính 2 năm 9 tháng cải tạo tù, anh tôi thiếu 3 tháng cải tạo. Thế là hồ sơ H36 của anh tôi bị bác đơn sau khi phỏng vấn phái đoàn Mỹ. Anh tôi buồn và gia đình tôi cũng buồn. Tôi thì may mắn hơn anh vì chồng tôi cải tạo 6 năm nên gia đình tôi và 3 con đến bến bờ tự do theo diện HO18.
Đến Mỹ tôi phải cám ơn chính phủ Mỹ, dân chúng Mỹ đã nhân đạo giúp đỡ gia đình tôi bước đầu, các con tôi được học đến đại học mà không phải tốn tiền vì nếu phải đóng tiền học, chắc suốt đời tôi làm cũng không đóng đủ cho con tiền học. Đến Mỹ một năm chữ nguôi nỗi nhớ nhà, thì tin mẹ chết đến với tôi, không giấy tờ cho phép không tiền bạc, tôi không về được để đữ mẹ tôi đến nơi an nghỉ cuối cùng. Tôi buồn đau vô cùng, tôi ân hận suốt một đời mẹ tôi cực khổ lo cho các con, tôi chữ trả hiếu một ngày, tôi buồn ray rứt chắc chắn đến ngày tôi nhắm mắt tôi cũng không nguôi thương nhớ người mẹ hiền. Mẹ tôi là một người đàn bà nhà quê ít học nhưng nhờ đọc sách nhiều, mẹ tôi biết nhiều lắm và mẹ dạy anh em chúng tôi đầy đủ đạo đức làm người và sống thật tốt với đời.

Sau khi mẹ tôi mất, bố tôi cũng buồn rầu và bệnh nặng, tôi bên Mỹ chỉ biết viết thư thăm hỏi sức khỏe bố. Anh trai và chị dâu tôi vất vả với vườn cây, gánh gạo và lo cho bố tôi. Bác sĩ nói bố tôi vì lớn tuổi nên dây thần kinh nhão không làm việc nữa nên mọi việc vệ sinh cá nhân, ăn uống đều không tự làm được. Tôi thương bố tôi nghiệp chướng nặng nề mặc dù cụ rất đạo đức tu hành và luôn giúp đỡ người nghèo gặp khó khăn lúc sinh thời. Tôi thương anh trai tôi anh sinh ra vào ngôi sao xấu, nên dù tính anh rất tốt anh được lòng bà con giòng họ, tất cả bạn bè thân quen anh, đều thương anh mà anh vẫn khổ. Anh tôi ngày ngày chăm lo cho bố tôi thật chu đáo tắm rửa, ăn uống, thuốc men…. cho tới khi người thanh thản ra đi sau khi ăn sáng và ngủ giấc ngủ êm dịu, không đau đớn không kêu ca. Tôi nghe kể lại là bố tôi đã mỉm cười với con cháu trước khi nhắm mắt lìa cõi trần về cõi Phật.
Thế là chúng tôi đã mất cả cha lẫn mẹ, mãi mãi chẳng còn nhìn thấy người nữa, tôi bây giờ chỉ mong gặp lại anh trai tôi ở bên ở bên bờ tự do nhưng sao thấy khó quá vì anh tôi năm nay đã 62 tuổi mà hồ sơ bảo lãnh anh em ruột theo luật di trú Mỹ phải mất 12 năm mới xét tới. Liệu anh anh tôi còn sống đến được năm 74 tuổi nữa không vì sau khi 3 năm tù binh, 2 năm 9 tháng cải tạo và suốt từ ngày về sau trại cải tạo là anh tôi gắn liền với miền đất kinh tế mới sỏi đá.
Mới đây tôi nhận được tin anh tôi sau bệnh cao máu sạn thận, sạn mật bao tử loét hành hạ lại thêm bệnh đường ruột viêm kinh niên phải uống thuốc thường xuyên. Tôi không lạ vì bệnh của anh xuất phát từ hậu quả bao năm tháng tù đày và những ngày tháng sống khổ cực thiếu thốn trên miền kinh tế mới sỏi đá khô cằn.
Bây giờ tôi chỉ còn biết cầu xin cho cha mẹ siêu thoát về cõi Phật và trời Phật cho anh em tôi đoàn tụ trên bến bờ tự do.
Tôi vẫn hy vọng anh em tôi sẽ gặp nhau trên đất tự do này. Sau những phân ly, khổ nhọc rồi sẽ là đoàn tụ, cũng như anh đã "chết đi sống lại" mà vẫn trở về với gia đình năm nào.

Tuyết Trinh
Tháng 4/2003
(714) 890-9961

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 863,662,017
Tác giả đã góp cho Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12 nhiều bài viết đặc biệt. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biên đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA. Sau đây là bài viết mới nhất của ông nhân dịp Fathers Day.
Tác giả là cư dân vùng Little Saigon, liên tục góp bài cho giải thưởng Việt Báo từ nhiều năm qua, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2011. Bài viết mới của Tịnh Tâm là một truyện ngắn nhân ngày Fathers Day sắp tới.
Tác giả sinh năm 1944, định-cư ở Mỹ năm 1979, sống ở California 25 năm với nghề điêu khắc gỗ. Một số tượng điêu khắc gỗ cỡ lớn hiện đang toạ lạc trên đường phố và nơi công công của các thành-phố Seaside, Monterey, và Los Gatos tại California là công trình của ông Tú.
Tác giả tham dự Viết Về Nước Mỹ từ 2009 và đây là bài viết thứ ba của ông, tự sự của một cựu chiến sĩ về quê cũ tìm thăm mộ đồng đội cũ. Tác giả cho biết ông sinh tháng 10/1939. hiện là cư dân Houston, Texas. Trước 1975, là sĩ quan QLVNCH. Bị băt tù binh ngày 16/04/1975 tại mặt trận Phan-rang.Ra tù 1984. Vượt biên 1986. Bị băt giam ở nông trường dừa 30/04, tỉnh Trà-vinh. Năm 1987 trốn trại về Saigon. 1989 tái vượt biên đến Malaysia tháng 07/1989. Tháng 05/1993 định cư ở Mỹ.
Tác giả cho biết ông sinh năm 1938, cựu sĩ quan an ninh quân đội, sang Mỹ theo diện H.O. vào năm 1990, hiện đã về hưu và an cư tại Westminster. Ông tham dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2008 và đã góp nhiều bài viết giá trị. Mừng tác giả trở lại trường học và mong ông viết thêm.
Ngày này, tuần tới sẽ là Fathers Day. Nhân dịp này, mời đọc bài viết mới nhất của Cam Li. Trước 1975, tác giả từng viết nhiều truyện ngắn trên bán nguyệt san Tuổi Hoa, và các truyện dài xuất bản bởi Tủ Sách Tuổi Hoạ - hiện có trên trang mạng: http//tuoihoahatnang.com. Sau 30/4/1975, Cam Li không viết nữa, chỉ chuyên làm công việc nghiên cứu khoa học. Định cư tại San Jose từ 2003, sáu năm sau cô góp cho giải thưởng Việt Báo nhiều bài viết giá trị và nhận giải vinh danh Tác Phẩm Xuất Sắc, Viết Về Nước Mỹ 2010.
Đây là bài thứ ba của Lê Thị. Tác giả 35 tuổi, cư dân Chicago. Trong email kèm bài đầu tiên, Lê Thị cho biết, "Mới đây, sau khi đọc một số sách của nhà văn Nhã Ca, tôi bỗng có cảm hứng muốn viết và đây là bài viết bằng Việt ngữ đầu tiên của tôi trong 20 năm qua." Với hai bài “Tôi Vẫn Là Tôi” và “Đâu Đó Có Chỗ Cho Chúng Ta” kể chuyện tình đồng tính, Lê Thị hiện dẫn đầu số lượng người đọc Viết Về Nước Mỹ trong 30 ngày qua. Bài viết mới làm bật lên sức quyết định của “hơi ấm gia đình” đối với những lựa chọn sinh từ trong tình huống tuyệt vọng, đồng thời cho thấy sức viết mạnh mẽ của tác giả.
Tác giả là một nhà văn, nhà báo, đồng thời cũng từng là nhà giáo, nhà hoạt động xã hội quen thuộc với sinh hoạt văn hóa truyền thông tại quận Cam.Ông đã góp nhiều bài giá trị và từng nhận giải danh dự viết về nước Mỹ. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả sinh năm 1957, cư dân Santa Ana, nghề nghiệp: làm nail. Loạt bài viết về nước Mỹ gần đây của tác giả với tên thật Nguyễn Thị Hữu Duyên gồm: Bỏ Gì Thì Bỏ; Ước Vọng Của Tin, thể hiện tình thương yêu và ý chí của một gia đình Việt Nam trên đất Mỹ. Vẫn trong tinh thần ấy, bài mới của bà là chuyện của mùa Fathers Day.
Tác giả là một nhà thơ, sĩ quan hải quân, từng tu nghiệp tại Mỹ. Sau năm 1975, ông trở thành người tù chính trị và định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Ông tiếp tục làm thơ và góp nhiều bài tham dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ những năm đầu tiên.
Nhạc sĩ Cung Tiến