Hôm nay,  

Nỗi Niềm Riêng

23/06/200300:00:00(Xem: 254182)
Người viết: Chúc Chân
Bài tham dự số 3232-831-vb60620


Tác giả tên thật Hùng Túy Trước, tuổi Giáp Ngọ, cư trú tại Austin, Texas, tự sơ lược tiểu sử như sau: “Nghề nghiệp, 18 năm làm kỹ sư, hiện làm nghề “thợ săn việc.” Quá trình viết: Viết luận văn rất bết khi ở trung học nên theo ban toán cho dễ. Lên đại học theo ban kỹ thuật nên không sợ chuyện văn chương. Qua Mỹ học 2 courses English Composition bằng tự điển Nguyễn Văn Khôn. Gần đây làm "thợ săn việc" có nhiều thì giờ ngắm trời mây cây cỏ nên muốn tập làm luận văn lại.”
Chúc Chân đã góp cho giải thưởng Viết Về Nước Mỹ hai bài “Tổ Trống” và “Gió Đưa Bụi Chuối” và nhóm phụ trách biên tập đã giới thiệu tác giả như sau: Ngay từ bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên, Chúc Chân đã cho thấy lối kể chuyện đặc biệt, tinh tế, chừng mực. Lần này, bài thứ hai, lối kể chuyện của ông thêm nét nhân hậu và duyên dáng đặc biệt.
Lần này, kèm theo bài viết thứ ba, tác giả yêu cầu đính chính không phải là “ông” đồng thời báo tin cô cũng vừa hết làm “thợ săn việc” và tiếp tục làm công việc kỹ sư năm thứ 19. Mừng Chúc Chân và chờ thêm bài mới.

Bấm xong cái thẻ giờ, anh lầm lũi đi ra bãi đậu xe vắng ngắt. Làm thêm 2 giờ phụ trội xong mệt lả người. Từ hồi làm job technician tới nay, anh lúc nào cũng đầu tắt mặt tối với mấy cái máy. Pay check có nặng thêm, nhưng phải vác thêm nhiều trách nhiệm mới lên vai. Đúng là tiền nào của nấy. Nhưng hôm nay lòng anh nặng thêm không phải vì đám máy móc phức tạp.
Ngày đó anh như bao nhiêu người di tản, cố chạy lấy mạng. Anh lái chiếc sà lan ra khỏi Tân Cảng đêm 30 tháng Tư. Tưởng chỉ đi tạm lánh nạn. Nhưng khi tới Guam thì hy vọng trở về tan như khói đám cháy ở Tân Cảng chiều hôm đó. Những lo âu mấy ngày đầu bây giờ thành nỗi tuỵêt vọng mênh mông. Đứa con gái đầu lòng của anh mới được đầy tuổi tháng trước.
Sau những tuyệt vọng thời di tản là những năm tháng cực nhọc trong đời sống tị nạn tại Mỹ.
Anh quen chị ngày đầu khi chị nhận việc chạy máy khu P&L. Đồng hương ở thành phố nầy không là bao nên không bao lâu anh và chị qua lại rất thân thiết. Những ngày cuối tuần hay lễ nghỉ, chị nấu khi thì phở , khi thì bánh cuốn, rủ vài người bạn và anh tới căn chung cư của chị ăn uống cho vui. Thỉnh thoảng anh thăm giùm nhớt xe, thay dầu hoặc đổi mấy cái bugi xe cho chị.
Tội nghiệp chị, con còn nhỏ phiêu bạt xứ người. Sau cái job quét dọn trong khu đại học xá, chị được sponsor giới thiệu làm assembly trong hãng anh làm, công việc đỡ cực hơn nhiều. Chị rất thầm lặng, nên phải một thời gian sau anh mới rõ tình cảnh của chị. Tình cảm của anh và chị phát triển tự nhiên theo thời gian. Ở xứ lạ có nơi nương tựa chị đỡ lẻ loi, vả lại thằng Bé Tí cũng khắng khích với anh lắm. Tình yêu của anh chị tuy vậy không phải chỉ vì những tiện nghi hàng ngày. Anh và chị cảm mến nhau từ nét thanh tao kín đáo của chị, vẻ nhân từ bao dung của anh.
Gia đình gồm ba người sống rất đầm ấm bắt đầu từ mùa đông năm đó. Anh dọn về chung cư của chị với một ít sách vở và chiếc xách nhỏ gọn gàng. Bộ máy stereo và mấy thứ gia dụng lỉnh kỉnh anh để lại cho thằng room mate.
Cuộc sống êm đềm và ấm cúng. Hàng ngày anh đưa Bé Tí tới lớp giữ trẻ trên đường ra sở mỗi sáng. Cha con khắng khích. Bé Tí không quên "bye daddy" sau khi ôm hôn anh ngọt lịm. Buổi chiều chị đón con về , lo cơm nước tươm tất thì anh về tới. Xong bữa cơm chiều, anh tới trường đại học cộng đồng kéo thêm mấy lớp học đêm. Chị dọn dẹp nhà cửa, xấp hai phần cơm trưa cho anh và chị hôm sau. Mỗi tuần ba đêm chị chở con tới lớp học Anh Văn ở nhà thờ. Những hôm không có lớp, chị ngồi kèm Bé Tí đánh vần, hoặc mẹ con cùng giở mấy quyển sách hình nhi đồng. Chị dợt lại mấy chữ mới học được bằng sách của con. Còn Bé Tí thì thích mấy hình Pooh lắm, con gấu mập với hũ mật đầy.
Hai năm sau, anh chị mua được một căn nhà. Dọn nhà lần này cực hơn lần trước nhiều. Anh phải dọn những thứ lủng củng, từ mấy cái lọ chị rửa sạch để dành, tới cái chậu rau thơm bà Giàu cho làm giống tháng trước. Còn chị thì vui ra mặt. Có an cư mới lạc nghiệp được. Chị định sanh thêm đứa nữa.
Khi Tí Hon ra đời, anh làm xong cái bằng cán sự và được hãng cho làm technician. "Chồng Tách (tech), Vợ Ly (assembly)" không gì hơn. Hạnh phúc thật là trọn vẹn.
Mấy năm nay anh chị gởi quà về nhà đều đặn. Những sấp vải xoa xuống tận Houston mua. Những lọ dầu xanh thứ thiệt. Thuốc Tylenol hũ trăm viên. Bịch bột ngọt nửa ký. Rồi tới mấy hũ kem dưỡng da. Kem đánh răng Colgate. Khi gởi tiền về được thì anh chị đỡ hơn, khỏi lo gói bọc. Anh chị chia nhau vui mừng tin nhà. Cha mẹ, anh chị em đều bình an và cuộc sống đỡ cực nhọc nhờ những thùng quà quí báu. Số tiền anh chị gởi về được dùng làm số vốn nhỏ giúp gia đình tạo dựng công việc mưu sinh.


Có những bao thơ màu xanh lợt viền đỏ, xanh, trắng với những trang giấy mỏng màu ngà đầy những hàng chữ thân thương được đọc kín đáo hơn. Anh chị chia nhau lặng lẽ những dòng chữ viết về nổi nhớ thương của người vợ và đứa con không nhớ được mặt cha Những dòng chữ của người mẹ kể lại nổi khó khăn trăm dặm thăm nuôi đứa con trai tù cải tạo ngoài Việt Bắc.
Chị là nữ sinh Đồng Khánh Huế thanh tao và nhỏ nhẹ với ước vọng trở thành một cô giáo hiền. Sau năm đầu sư phạm , chị gặp người hùng lực lượng đặc biệt ghé Huế thăm bạn người anh họ của chị. Cuộc tình người hùng và giai nhân kết thúc vẹn toàn. Sau khi chị tốt nghiệp hai năm sư phạm, người hùng và giai nhân lấy nhau. Chị theo chồng về một tỉnh lỵ ở cao nguyên gõ đầu đám trẻ khờ.
Bé Tí chào đời vào mùa hè đỏ lửa khi cuộc chiến tàn khốc nhất. Người hùng nhờ may mắn vẫn toàn mạng sau những sứ mạng hiểm nghèo. Nhưng vận nước cao hơn. Khi cao nguyên thất thủ, chị không được một tin tức gì của ba Bé Tí. Sợ hãi và hoang mang chị cùng Bé Tí theo một gia đình người bạn di tản về Nha Trang và sau đó vào Sài Gòn nương náu gia đình người bác. Ba mươi tháng tư, thêm một lần di tản kinh hoàng. Cùng gia đình người bác, chị và Bé Tí ngàn dặm ra đi.
Phần anh, gia đình riêng của anh trước ngày ra khơi cũng là chuyện canh cánh bên lòng. Từ hồi bụng nặng, vợ anh về ngoại chờ nằm ổ. Khi sanh xong ngoại giữ lại luôn, lấy cớ anh đi công tác thường xuyên, mẹ con so yếu không ai săn sóc. Tân An cũng không xa xôi gì, anh đi lại thăm nom không khó khăn. Tháng bé Thu đầy tôi, ngoại cũng chưa chịu cho đi, thương con, thương cháu. Anh tính chuyến nầy về bến sẽ đem vợ con lên Sài Gòn ngay. Tình hình không khả quan chút nào. Mất cao nguyên. Rồi Đà Nẳng. Rồi Nha Trang và duyên hải. Chiến lược tử thủ miền Nam, anh thấy không hi vọng gì.
Tổng thống từ chức. Sài Gòn giới nghiêm. Anh chỉ đủ thời giờ quay tàu khỏi Tân Cảng. Anh ra khơi đêm đó với hy vọng sẽ trở về.
Tới Mỹ lòng anh nặng trĩu. Chán chường. Một trời lạc loài. Ngày về đón vợ con chỉ là ảo mộng. Trôi theo dòng định mệnh. Một ngườI bạn cũ kéo anh về ở chung. Rồi anh cũng phải tìm việc làm. Kiếm sống. Cuộc đời phải xuôi theo - Life must go on. Bây giờ anh không còn những cảm giác nặng trĩu nửa, nhưng hy vọng tìm lại vợ con cũng không còn.
Bức thơ hôm đó mang con tem Mã Lai với địa chỉ Red Cressent không đề tên người gởi. Hàng chữ viết tên anh rất quen nét. Nét chữ đó anh không bao giờ quên. Run run anh xé vội bao thơ. "Anh thương mến...". Anh như bay bổng. Vịn tay vào thành ghế. Anh không thở nổi. Bao nỗi vui mừng. Trời thương Anh. Trời thương vợ con Anh. Vợ và đứa con gái đầu lòng của anh đã an toan tới trại tị nạn ở Mả Lai sau mười ngày trôi nổi biển đông. Anh mừng quá.
Chị nhìn anh theo dõi từng nét mặt đổi thay, từ ngạc nhiên đến mừng rỡ. Rồi anh ôm chầm lấy chị. Chị cũng vui theo với nổi hạnh phúc của anh. Bé Tí và Tí Hon đứng ngơ ngác nhìn cha mẹ.
Những ngày kế tiếp, anh rối rắm trăm bề. Chị vẫn lặng lẽ với những công chuyện hàng ngày. Vẫn chăm sóc anh và hai đứa con như bao nhiêu năm nay. Anh thương sự nhẫn nại của chị vô cùng. Anh thương chị vô cùng.
Bức hình vợ anh gởi tới từ Pulau Bidong, con bé có đôi mắt tròn to dễ thương của mẹ và cái sống mũi cao đều đặn của cha. Người mẹ với nét mặt hiền hòa chịu đựng. Chịu đựng nuôi con bao năm chồng xa cách. Nhìn bức hình ấy, chị quyết định trả anh lại cho má bé Thu.
Trên bãi đậu xe trống vắng hôm đó, lòng anh mang nặng một nỗi niềm riêng.

Chúc Chân

Vài lời bên lề câu chuyện:

Câu chuyện được tạo dựng bằng những nhân vật có thật và không thật.
Anh - Có thật, anh N. chuyên viên máy lạnh, anh Đ. chuyên viên làm đồng xe, anh L. chuyên viên điện tử. Cả ba đang sống với vợ cưới trước 75.
Chị - Có thật, chị D. và chị V. Chị V. lập gia đình lại. Chị D. mất liên lạc
Bé Thu (tên đổi) - hiện là nha sĩ
Má bé Thu - hiện sống ở Texas
Tí Hon (tên đổi) - hiện sống với cha
Mẹ của Tí Hon - hiện đang sống ở Cali cùng gia đình ngoại Tí Hon
Bé Tí - tạo dựng, nhưng cũng có thể có thật
Người hùng lực lượng đặc biệt - Có thật, hai cổ tay còn vết thẹo sâu của dấu cùm.
Ngoại bé Thu - tạo dựng, nhưng hoàn toàn có thật. Vượt thời gian và không gian. Những bà ngoại thương con, thương cháu ở mọi nơi, mọi thời, mọi thế hệ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 860,101,469
Với bài "Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine", tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016 và vừa nhận thểm Giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2018. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả tên thật Lý Tuyết Mai, cư dân Pomona, CA. làm việc tại Bộ Xã Hội. Đến Mỹ khi còn tuổi học trò, cô thuộc "thế hệ gạch nối" của người Việt tại Mỹ. Với bài viết về chính sách của Bộ Xã Hội Mỹ đối với trường hợp một cô bé gốc Việt 16 tuổi mang bầu, Bảo Trân đã nhận giải Vinh Danh Tác Phẩm - thường gọi đùa là giải á hậu - Viết Về Nước Mỹ 2009. Sau đây là bài viết mới của cô.
Tác giả là một cựu tù cộng sản, hiện sống ở Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, và từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông. Sau giải Đặc Biệt năm 2017, với bài viết của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan, ông được trao thêm giải Danh Dự VVNM 2018. Sau đây là bài viết mới của ông, từ Cameroon, một nước ở miền trung Phi châu.
Viết Về Nước Mỹ năm thứ 20 trân trọng chào mừng thêm một người viết mới. Theo bài viết, từ 1978, Ngọc Ánh đã là tác giả những trang nhật ký của một nữ sinh viên viết từ Sài Gòn, được đăng trên bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại tại San Diego. Và từ 1979 thì cả nhà người viết đi tù. Người chồng bị kết án tử hình. Cháu bé mới sinh một tuổi theo mẹ vô nhà tù. Nhưng hơn 10 năm tù đày cộng sản không làm bà gục ngã. Và rồi, tình yêu đến... Thư kèm bài, bà viết “Tôi tên thật là Trần Ngọc Ánh, hiện đang sống tại thành phố Victorville, CA. Lần đầu tiên tôi viết bài tham dự "Viết về nước Mỹ" và hy vọng sẽ có nhiều bài viết về chủ đề này gởi đến Việt Báo trong năm nay...” Khi thêm bài mới, mong tác giả bổ túc ít dòng tiểu sử và địa chỉ liên lạc.
Tháng Năm 2018, tại Việt Báo Gallery, có buổi ra mắt sách Anh ngữ "Finding My Voice—A Journey of Hope” tác giả Crystal H. Vo tức Võ Như Ý, một tác giả từng dự Viết Về Nước Mỹ từ 2009. Cô sinh năm 1970 ở Đà Nẵng. Năm 15 tuổi vượt biên cùng một người anh, tới Mỹ năm 1986 và thành công dân Mỹ với tên Crystal H. Vo. Cô hiện là cư dân San Gabriel, CA. và làm việc tại Sở Xã Hội Quận Hạt. Trong những năm ngừng viết về nước My,õ cô kết hôn, thành con dâu một gia đình Mỹ và đã dành trọn thì giờ để học sống và viết bằng Anh ngữ. Sau đây là bài viết mới nhất của cô sau họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016. Với sức viết mạnh mẽ, tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, bà có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Sau đây, là bài viết mới nhất, khi tác giả bay từ Arkansas về họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Và...
Chỉ với bài viết đầu tiên, tới vào tháng cuối, Tác giả đã nhận giải Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Thư kèm bài, tác giả viết “Tôi tên Tố Nguyễn, đang làm tax accountant ở Los Angeles, thường xuyên theo dõi mục Viết Về Nước Mỹ. Tôi rất xúc động khi đọc những câu chuyện đời của người Việt trên xứ Mỹ, giờ tôi xin góp câu chuyện thật của tôi...” Sau bài đầu tiên, bước sang năm thứ 20 của giải thưởng, tác giả đang tiếp tục cho thấy sức viết ngày càng mạnh mẽ hơn. Sau đây là bài viết của cô về lần đầu họp mặt Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả sinh năm 1953, tốt nghiệp Sư Phạm Sài Gòn khóa 12. Vượt biên sang Mỹ 1982, và từ đó tới nay định cư tại San Jose; Nghề nghiệp: Mechanical Designer, về hưu tuổi 65. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là chuyện vui về nhóm bạn trường Sư Phạm Sài Gòn, khóa cuối cùng, ra trường năm 1975, kèm lời ghi của tác giả: “Thân tặng các bạn lớp Nhất 9/Nhị 15, khóa 12 (1973-75) Sư Phạm Sài Gòn.”
Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016. Với “Viên Đá Kỳ Diệu,” một trong bốn bài viết về nước Mỹ của ông, Thảo Lan đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19.
Tháng Bảy, mùa Vu Lan, xin mời đọc bài viết về Mẹ của Minh Nguyệt Graves. Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà là chủ tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự năm thứ mười chín, 2018.
Nhạc sĩ Cung Tiến