Hôm nay,  

Hồn Văn

02/09/200300:00:00(Xem: 135723)
Người viết: TỬ NGÔN
Bài số 340-879-vb5270803

Lần đầu tham dự Viết Về Nước Mỹ bằng 2 bài viết, tác giả chỉ cho biết "mới 28 tuổi". Bài viết thứ nhất mang tựa “Hắn” đã được phổ biến. Sau đây là bài viết thứ hai. Mong Tử Ngôn sẽ bổ túc phần tiểu sử sơ lược và địa chỉ liên lạc.

Muốn cầm viết nhưng rồi lại lưỡng lự biết viết gì, khi số phận đã định. Gã chán nản quăng bút vào góc bàn, rút điếu thuốc ra, đưa lên môi ngậm hờ. Trong cái thế giới văn chương, ngày trước là nơi trú ẩn của gã; nhưng bây giờ, gã đang mất hồn, có viết cũng chẳng ra.
Ngồi dựa thân ghế, gã nghe điện thoại reo mà không bắt, chắc gã biết cô bạn nhỏ đang gọi gã hỏi thăm như mọi ngày. Lạ thật, gã già rồi, thế mà không hiểu sao cô nhỏ này lại đeo dính như sam. Gã có chạy cũng không thoát bàn tay của cô. Chẳng hiểu cô hiểu được gì ở gã mà lại theo sát đến thế. Tấm thân tàn phế, đầu óc mụ mẫm này thuộc về thân xác gã mà gã còn không hiểu gã đang muốn gì, định làm gì. Thế mà hay cho cô ả, cứ khăng khăng nói ả biết gã muốn gì, cần gì . Nực cười cho cái thứ tình dị hợm gã ban phát hờ hững cho, vậy mà còn hơn keo dán, dán dính cô ả với gã.
Phone reo gã cứ mặc, ngồi thả dòng khói vào không trung một cách lơ đãng bất cần. Có lẽ cô ả cũng tự ái, nên thôi không gọi gã nữa. Gã muốn thong đong một mình không muốn phiền ai, thời gian cứ thế mà trôi ...
*
Ngày còn trẻ gã nhiều khí huyết lắm chứ, cũng săn sái trong mọi lĩnh vực, thơ văn đến súng đạn Cái tuổi trẻ non dại đầy nhiệt huyết của gã để lại lắm vết sẹo đau lòng . Như thời vừa giải phóng, gã trong lớp thanh niên có học, tư tưởng cởi mở, không chịu bị kèm kẹp dưới cái lớp mặt nạ giả của tụi cộng sản con. Gã đã lên rừng gia nhập chiến khu hòng lật lại thế cờ đã chết của Cộng Hoà. Ấy, gã hăm hở xách ba lô, đang đêm lén lút với vài ba thằng bạn cùng chí khí, vượt suối băng rừng tìm đồng đội ; có biết đâu khi đến nơi, cái chiến khu mà gã mơ tưởng chỉ là một cái bẫy của con cáo già mang "họ Lê, họ Mác". Chúng không hành hạ gì gã, chẳng bắt bớ đánh đập gì cho cam. Chỉ duy có một điều, tự do và cơm áo của gã đang có bị hạn chế. Hằng ngày gã cùng lũ bạn nai tơ phải rị mọ hằng trăm trang sách của Stalin, Lenin, các "tư tưởng vĩ đại" "chính minh" của các bật quan thầy cộng sản. Cơm ăn vài hột, muối bửa có bửa không. Gã cùng lũ bạn theo năm tháng dưới kiểu đàn áp tinh thần công khai trắng trợn ấy, đã dần mụ đi. Chí khí mất, tinh thần suy sụp, thân gã trở thành một tên phế binh, tàn binh không hơn không kém. "Thấy chưa," bật quan thầy Cộng Sản đã nói với ga : "Các anh ngu dại theo Mỹ đi, để bây giờ thân hình tàn tệ như ma có ai ngó đến !" Tráo trở, du côn, chúng nói ngược không thua gì phường buôn thúng bán buôn ở chợ trời, dân lưu manh chánh hiệu .Gã chịu thua lũ người rừng " Cẩu khí"; chịu nhục mất nước, lầm lũi trốn như một con chó cụp đuôi, sau khi được phán: " Đã thấm nhuần tư tưởng của Bác, từ nay phải biết quay đầu về phục vụ con dân một cách sốt sắng nhé!". Gã bỏ nước, trong tủi hận, cái khí sung mãn của tuổi thanh niên bị sóng Đại Dương cuốn trôi về nơi cát bụi nào rồi.
Sang thế giới văn minh, gã không dám tự hào mình là một thằng đàn ông chánh hiệu. Gã sống phẳng lặng như con đường nhỏ thời sơ co.å Không ai để ý đến, cũng không ai màng đến việc gã thành công hay thất bại. Ấy vậy mà ... gã vẩn bị đời hành hạ, trù quyến.

Gã yêu Gã đã không còn là một thằng con trai nông nổi nửa, thế nhưng đụng đến đàn bà là gã luống cuống không biết đối phó thế nào.
Người yêu đầu tiên gã gặp lại chơi khăm gã, nàng có chồng, mà bảo rằng chưa. Đến khi gã đến hỏi cưới mới lòi ra sự thật. Gã bị đời nguyền rủa: Rù quyến vợ người ta, chia ly gia đình kẻ khác. Gã hoang mang, hối hận, tự đấm ngực kêu mình thằng mù. Rồi gã bỏ đi xứ khác lập nghiệp. Mười năm sau gã gặp lại cô nàng. Vẫn nhan sắc như xưa nhưng đã là bà mẹ một thân nuôi con. Cô nàng vẫn khăng khăng nói "Vẩn yêu gã như ngày nào." Thế là gã có vợ, không cưới xin, không hôn thú. Gã sống với nàng cho qua thời gian và cho bõ hận ngày xưa bị rủa oan.


Chừng vài tháng sau, gã thật lòng thố lộ cho vợ biết "gã không yêu, chỉ lấy cho bõ ghét, nhưng giờ bị dằn vặt gã đành phải chia tay thôi, xin nàng tha lỗi" Cô nàng không nói, vẩn để gã đi, như thể biết rằng gã đi vài bữa nửa tháng sẽ trở về.
Quả đúng như vậy, gã đi chỉ non tuần là lại mò về, lần này không phải gã yêu mà chỉ vì trách nhiệm. Gã đã để lại trong bụng nàng một giọt máu tinh khôi không tội lỗi. Gã trở về chịu trách nhiệm làm cha và để cô vợ cười đắc ý. Gã bỗng hiểu thêm, (mà đáng lẽ tuổi đời gã như thế, gã phải nên hiểu từ sớm ) đừng dại dột lôi thôi với đàn bà.
Gã có vợ, đời sống phiêu bạt của gã trụ lại, gã cố tỏ ra yêu vợ, trìu vợ, nhưng cái lí ở đời, "Ngựa quen đường cũ" thời nào cũng đúng. Vợ gã đẹp, nhan sắc lại lẳng lơ. Nên đàn ông theo đâu phải là chuyện khó, gã không màng đến chuyện đó, ghen rồi thì sao" Gã làm bộ như gã yêu lắm, thế mà có được gì đâu, nên gã không ghen, chỉ ngậm cười cho qua cái định số đã viết sẵn trong lá tử vi cha gã bốc cho.
Gã cần cù làm ăn, tiền gã không ham, nhưng gã muốn con có đời sống an nhàn sau này, nên gã nai lưng làm việc, tốn công học hành cho tương lai đứa con nhỏ. Cô nàng vợ gã vẩn nhởn nha tay quơ tay quào, thầm thì dấu ái những câu nói gã nghe như vịt nghe sấm; tuy vậy mà gã cũng có đến hai cục con con cách nhau bốn năm. Rồi gã ngưng hẳn.
Gã sống lại cái thời trai tráng bị kìm kẹp dưới những ngôi nhà lá của núi rừng Tây Nguyên, chịu nhồi sọ những thứ ngôn ngữ lý luận bát nháo của các quan thầy Cộng Sản. Gã vật vờ vất vưởng, rày đây mai đó, cốt sao cho qua ngày, cho có tiền nuôi hai con và mụ vợ đẹp chưng diện như công chúa.
Mười năm thoáng cái đến bên ngạch cửa. Tóc gã lấm chấm bạc. Nhìn gã cũng phong trần ghê gớm, nhưng gã có phong trần đến đâu, có dày dặn sương gió thế nào cũng không khỏi qua tay của đàn bà.
Gã bị vợ hành, bỏ không xong, lấy không đặng, thân gã như con kiến leo phải cành đa, leo nhằm cành cụt leo ra leo vào! Gã trở về với vợ, cho hai con chút thể diện làm con, khỏi bị mẹ ruột chúng hành hạ quấy rối bằng những câu mắng chó chửi mèo vô lí, ngang ngược như cua. Gã về, và theo lẽ thường, theo cái tính yếu mềm của gã, gã lại dan díu với cô nàng không tình cảm không chủ định, như câu " lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy". Gã lại thêm con, vợ gã được nguyên gia tài gã khổ công xây dựng trong mười năm nay. Đứa nhỏ ra đời là lúc gã biết, thân gã tàn thật rồi, hồn gã nát tan hoang. Gã chính ra là một cái bóng vất vưởng như một thứ ma trơi lây lấy không ai nhận làm thân nhân để cúng bái cầu tự.
Gã bỏ mặc thế giới tình yêu, quyết một lòng tu cho dứt nợ hồng trần. Nào có dễ như gã muốn, càng muốn tu, gã càng như con cá dưới nước bị bắt lên bờ, nằm dẫy đành đạch một cách đau đớn, mà không ai thương tưởng. Gã vẩn lặn lội muốn tu, mà đường tình duyên của gã trớ trêu, trong lúc gã muốn tu thì gã lại gặp cô nhỏ. Cô nhỏ cũng miệng lưỡi, xảo trá không thua gì vợ gã, cũng dối quanh dối co, cũng làm gã mê muội chìm đắm; để rồi cuối cùng sự thựccho gã biết cô nhỏ không ngây thơ ngoan hiền như gã tưởng. Nhưng một điều cô nhỏ khăng khăng đó là " Yêu gã thật lòng!". Câu này gã nghe quen quá, hằng ngày vợ gã vẩn nói như thếø. Vậy mà đã có lúc gã cứ ngỡ chính gã đưa cô nhỏ vào tình thế đau thương; Gã đang định dằn vặt gã. Nào ngờ bên kia đầu dây....
*
Ngơ ngẩn, buồn buồn, cô bé bỏ chiếc điện thoại xuống, nhìn hoài dòng chữ đã ghi số điện thoại, lòng nghi hoặc không biết mình đã gọi đúng hay sai số. Sao phone reo mà không ai bắt, chẳng lẽ khuya con người ta cũng phải đi làm"
Bồn chồn, cô nhỏ lại bốc phone, bấm số rồi thờ thẫn ngồi nghe tiếng phone reo liên tục bên kia đầu dây. Trời ngoài kia, đen tối âm u. Nhìn lâu cứ như đang nhìn vào một tấm thảm nhung đã cũ, không còn sức lóng lánh...
Và rồi, những tiếng nấc nghẹn ngào vang lên trong thanh vắng ...

Tử Ngôn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 863,414,404
Tác giả tên thật Tô vĩnh Phúc, từng viết một số văn thơ dưới nhiều bút hiệu khác nhau, nhưng bút hiệu sau cùng là Giang Thiên Tường. Thơ văn đã đăng ở tuần báo Phụ Nữ Cali và Làng magazine ở bắc Cali và các trang web. Tác phẩm mới nhất được xuất bản là thi tập "Bên Bến Sông Buồn"(2011). Trong những năm 1990, xuất bản và phát hình tuần báo Phù Sa ở Bắc Cali. Hiện là cư dân ở Sacramento, California. Mùa Mothers Day 2011, ông có bài “Chuông Gọi Mẹ Thương.” Sau đây là bài mới cho Mothers Day năm nay của ông. 
Tác giả sinh năm 1957, cư dân Santa Ana, nghề nghiệp: làm nail. Loạt bài viết về nước Mỹ gần đây của tác giả với tên thật Nguyễn Thị Hữu Duyên gồm: Bỏ Gì Thì Bỏ; Ước Vọng Của Tin, thể hiện tình thương yêu và ý chí của một gia đình Việt Nam trên đất Mỹ. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả tên thật là Yến Phi, 63 tuổi, hiện là cư dân WA. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà cũng là bài viết đầu tay nhân mùa Mothers Day, sau nhiều “vật lộn” khó khăn với chữ Việt trên computer, được tác giả trân trọng gọi là “Tác Phẩm Đầu Tay Dâng Mẹ.” Tựa đề được đặt lại theo nội dung bài viết. Mong tác giả tiếp tục.
Từ giữa năm 2010, tác giả tự sơ lược tiểu sử khi tham dự Viết Về Nước Mỹ: Trước 75, còn đi học, chỉ viết cho các báo thiếu nhi, học trò. Qua Mỹ từ 1990. Hiện ngụ tại Myrtle Beach, SC. Bài mới của Hải Âu cho giải thưởng năm thứ mười hai là một chuyện tình chia lìa vào Tháng Tư 1975.
Kông Li là bút hiệu vui vẻ của Phạm Công Lý, tác giả đã có nhiều bài viết về nước Mỹ giá trị, vừa nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 20011. Là một cựu sĩ quan VNCH, cựu tù, ông cùng gia đình đến Mỹ từ tháng 11/1994 theo diện HO, định cư tại Boston.
Tác giả đã góp cho Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12 nhiều bài viết đặc biệt. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biên đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA. Bài viết mới của tác giả cho mùa Mothers Day là một tự sự cảm động về Mẹ.
Tác giả tên thật là Nguyễn Tân, tuổi 60', cựu sĩ quan hải quân, cư dân Glendale, CA. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, từng nhận các giải bán kêt 2001 và giải Việt Bút 2008, hiện là thành viên "Ban Tuyển Chọn Chung Kết" Giải Thưởng Việt Báo. Bài mới “góp vui” của ông là một truyện hiếm có mở đầu cho mùa Mothers Day đang tới.
Tác giả là một nhà giáo, từng là Chủ tịch Hội Ái Hữu Ninh Thuận, hiện đã về hưu và là cư dân Riverside, Nam Cali. Ông đã góp nhiều bài viết đặc biệt cho giải thưởng Việt Báo từ năm đầu tiên, và nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2009. Tháng 2, ngày 3, 2012, Phạm Hoàng Chương có bài “Người Lấy Ba Vợ”, kể về người bạn thân từ thời học trò đi H.O. qua Mỹ, về Việt Nam sông với bà vợ mới đang gặp cảnh khó khăn, lương hưu bị ăn chặn. Bài từ tháng Ba, hiện đã có tới 19,151 lượt người đọc. Biết tác giả sau đó đã giúp bạn trở lại Mỹ để giải quyết vụ lương hưu, nhiều thân hữu hỏi kết quả ra sao. Sau đây là đầy đủ câu chuyện: ông bạn chỉ có ba mà là bốn bà vợ. 
Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của tác giả dành cho giải thưởng năm thứ 12 là “Chuông Gọi Mẹ Thương” đã phổ giến vào dịp Mother's Day 2011, Chủ Nhật 8-5-2011. Mới đây, ông có thêm 2 bài viết mới, trước hết là một chuyện kể về con tầu vượt biển đúng vào một đêm 30 Tháng Tư. Bài còn lại sẽ phổ biến sau.
Thời hạn dành cho bài Viết Về Nước Mỹ hàng năm kết thúc ngày 30 tháng Tư, nhưng như mọi năm, số lượng bài đã góp trước ngày này vẫn chưa thể phổ biến hết. Do đó, từ hôm nay, Việt Báo tiếp tục phổ biến thêm những bài dành cho năm 2012.
Nhạc sĩ Cung Tiến