Hôm nay,  

Xuân Về Nhớ Mẹ

31/01/200400:00:00(Xem: 129850)
Người Viết: NGUYỄN T. HỒNG LẠC
Bài số 460-998-Vb5290104

Tác giả Nguyễn Thị Hồng Lạc cho biết bà sinh năm 1947, hiện cư trú tại Troy, Michigan; Nghề nghiệp: Machine Operator. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là câu chuyện một bà vợ, bà mẹ phấn đấu đi làm lo lắng cho con trong khi cậu con thì cần sa, ma tuý về Việt Nam bị công an Cộng Sản bắt giữ, vu vạ tống tiền. Sau đây là bài viết thứ ba của bà, được ghi lời đề tặng như sau:
Thân tặng Ngô Thị Ngọc Dung, người bạn thân duy nhất của tôi, đã giúp đỡ lúc tôi còn đi học, sau 40 năm mới liên lạc được.
*

Mỗi năm cứ độ xuân về Tết đến là chị Lệ thấy buồn man mác. Mới đó mà đã mười hai cái Tết trên xứ người. Trời Michigan mới vào đông một tháng mà lạnh buốt thấu xương, có lẽ cũng cảm thông với nỗi buồn của chị nên bầu trời âm u mây xám. Một mình ngồi trước máy điện toán, cạnh cửa sổ nhìn tuyết trắng bay bay trên lá trên cây trên cỏ trên đường đi trên mái nhà, đâu đâu cũng phủ một màu trắng xóa. Chị Lẹâ thấy nhớ Mẹ và quê hương vô cùng, nhớ con đường đá đỏ gồ ghề chỗ lồi chỗ lõm dẫn vào thôn xóm Tân Ân, có chùa thầy Tám, có lũy tre xanh, có rạch dừa nước có con ba khía, có con còng nho nhỏ đỏ đỏ xanh xanh trông rất dễ thương, có ao sen cho dân làng chiều chiều nhộn nhịp gánh nước trên đường để xài trong ba ngày Tết, tai không quên lắng nghe tiếng hò văng vẳng của mấy cô thôn nữ đang gặt lúa ở dưới ruộng sâu.
Nơi đó có Mẹ hiền đã sinh chị ra nuôi chị lớn, nhà Mẹ nghèo nhưng Mẹ buôn tảo bán tần, lấy chỗ nầy lấp chỗ kia, không ngại dãi nắng dầm mưa để nuôi chị ăn học, cho chị có chút đỉnh kiến thức với người ta. Mẹ nói: "nhà Mẹ nghèo, Mẹ không có tài sản để lại cho con, con rán học thành tài để sau nầy nhờ tấm thân". Nhưng chị đã không nhớ lời Mẹ dạy, học hành chưa tới đâu, mới mười sáu tuổi đầu, bồng bột yêu đương, bất kể hậu quả, để có bầu với người bạn học cùng trường nhưng hơn chị ba lớp, ở nhà trọ đàng sau nhà chị. Ngày chị đi thi bằng Trung học đệ nhất cấp năm 1965 là ngày chị có mang ba tháng, mặc áo dài soa sốp màu trắng ngà của bạn thân Ngô Thị Ngọc Dung cho, đã thấy bụng u u lên rồi, chị mắc cở lắm, nhưng chị cắn răng chịu đựng và chị cố gắng thi đậu ngay năm đó.
Sau đó chị bỏ học, bỏ xứ trốn Mẹ theo người yêu lên Saigon để tránh những cặp mắt dòm ngó khi dể dèm pha của dân làng. Người yêu chị lúc đó đang học lớp đệ nhất trường Chu Văn An, nhà cũng nghèo như nhà chị, quê ở Phước Hưng Rạch Kiến, mẹ mất sớm, cha có vợ khác, ông lại ham mê cờ bạc bỏ mặc anh vừa đi học vừa đi phụ hồ để lo nơi ăn chốn ở cho ba đứa em còn đi học, đứa lớn nhất nhỏ hơn chị hai tuổi. Mấy tháng sau anh Lân, người yêu chị thi rớt Tú Tài II, anh đăng ký vào trường sỹ quan Thủ Đức, chị mang bụng bầu đã lớn gần tới ngày sanh, không nơi nương tựa, chị trở về quê năn nỉ Mẹ tha tội đã làm cho Mẹ buồn, làm cho Mẹ xấu hổ nhục nhả với xóm làng vì có đứa con hư bụng mang dạ chữa không chờ lịnh Mẹ cha, không có một miếng trầu cau của đàng trai đưa tới.


Lòng Mẹ bao la như biển Thái bình sẵn sàng tha thứ cho chị, để chị ở chờ ngày nở nhụy khai hoa. Hằng ngày Mẹ đã vất vả buôn gánh bán bưng ở chợ Cần Đước để nuôi ba đứa em của chị, nay Mẹ vất vả hơn vì có thêm hai miệng ăn, Mẹ không bao giờ than khổ than cực, trái lại Mẹ rất vui vì đứa cháu ngoại gái của Mẹ rất kháu khỉnh dễ thương giống Mẹ nó như đúc. Có lần chị bồng con đi chợ kiếm Mẹ xin tiền mua sữa cho con, chị bắt gặp một cảnh rất đau lòng, Mẹ đang bưng rổ cá biển đi bán dạo bị người chủ vựa ca giựt đổ tung tóe chỉ vì Mẹ lấy cá bán, hẹn chủ cá đến trưa Mẹ sẽ trả đủ cho chủ, nhưng xui cho Mẹ ngày đó Mẹ bán ế, đến trưa vẫn còn, chưa có tiền trả cho người ta, nên mới xảy ra cớ sự đau lòng! Thấy vậy chị bồng con trở về qua hàng xóm xin nước cơm chắt cho con chị đỡ lòng. Sau đó bà Chín hàng xóm, má anh Xích, bạn học cùng lớp với anh Lân cũng giàu lòng nhân đạo, mỗi lần gánh lúa đi nhà máy để xay ra gạo, bà cũng nhín cho con chị một ít gạo lức đểõ xay thành bột, chị khuấy thành sữa cho con chị bú. Đã nghèo đã khổ mà còn mắc eo, sinh con ra chị Lệ bị mổ vú, nên không có sữa cho con bú. Khổ ơi là khổ!
Bây giờ Mẹ chị Lệ đã ra người thiên cổ vì tuổi già sức yếu Mẹ chị không đủ sức chống chỏi với thời gian để chờ ngày trở về của chị từ vùng đất hứa. Ngày chị đi Mỹ với gia đình theo diện HO, Mẹ chị tiễn ra phi trường, tay Mẹ run run nắm lấy tay chị dặn dò: "Các con nhớ bảo trọng lấy thân, giữ gìn sức khỏe, đến nơi viết thơ về liền cho Mẹ, khi nào cuộc sống ổn định vợ chồng con cái dắt nhau về thăm Mẹ nha con". Mắt Mẹ đỏ hoe chan chứa tình thương, chị dạ dạ vâng vâng cho Mẹ yên lòng, nhưng chị có ngờ đâu ngày đó là ngày cuối cùng chị nhìn thấy Mẹ. Chị ra đi năm 1992, năm 94 Mẹ mất vì bạo bịnh, có lẽ vì thương nhớ chị ngày đêm nên bệnh suyễn và bệnh tim của Mẹ càng ngày càng nặng. Ngày Mẹ mất chị không về được để nhìn mặt Mẹ lần cuối, để mắt Mẹ cứ mở trừng trừng, ai vuốt cũng không nhắm lại, Mẹ đã chờ con của Mẹ từ phương xa, nửa vòng trái đất trở về, nhưng con Mẹ vẫn bặt tăm. Nơi suối vàng Mẹ chết không nhắm mắt ở trần gian chị buồn khổ lắm Mẹ ơi, chị ân hận đến suốt cuộc đời, vì chị qua Mỹ mới có hai năm, đời sống còn nhiều khó khăn, tiếng Anh không rành, chị không biết làm sao để xin permit về Việt Nam thọ tang Mẹ.
Còn mấy ngày nữa là tết đến, Michigan nơi chị ở không thiếu những món ăn truyền thống của ngày Tết như thịt mỡ kho tàu, dưa giá, cải chua, khổ qua hầm, thịt nguội, gà luộc nguyên con đủ đầu cẳng cánh, bánh chưng, mứt dừa mứt bí mứt me mứt mãn cầu, dưa hấu đỏ... chỉ thiếu hoa mai vàng rực rỡ và hoa vạn thọ xinh tươi. Nhớ ngày xưa lúc còn ở Việt Nam, nếu không đủ tiền để mua một chậu hoa mai để trước nhà thì chị cũng rán mua cho được một cành mai, chưng vào bình để trên bàn. Chị tưởng tượng giờ nầy bên Việt Nam không khí tết rất vui rất nhộn nhịp, ngựa xe như nước áo quần như nêm, nhất là ở quê chị, trên con đường đá đỏ đó, đông nghẹt người gánh bông vạn thọ, rau cải, hoa mai từ đồng quê Tân Chánh hay Bà Nhờ ra chợ Cần Đước bán để đổi lấy những thứ cần dùng cho ba ngày tết.
Trước thềm năm mới chị Lệ hy vọng mọi sự rồi sẽ đổi mới. Đứng trước bàn thờ Mẹ chị chấp tay van vái: hồn Mẹ linh thiêng xin Mẹ hãy phò hộ cho chị sớm trở về với nơi chôn nhau cắt rún của chị, để chị thường xuyên thăm viếng mộ Mẹ, lạy Mẹ tha tội bất hiếu cho chị vì công sanh thành dưỡng dục của Mẹ chị chưa đền đáp, ngày Mẹ mất chị cũng không về. Chị tin tưởng ngày đó sẽ không còn xa!

Xuân Giáp Thân 2004
NGUYỄN THỊ HỒNG LẠC

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 858,559,805
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ 20. Bà tên thật Trần Ngọc Ánh sinh 1955, sau khi đi tù gần 11 năm về tội chống Cộng Sản từ đầu 1979 đến cuối 1989, đã tốt nghiệp Đại học năm 1995 ngành Quản trị kinh doanh tại VN. Sang Mỹ định cư theo diện kết hôn năm 2007, hiện đang sống tại thành phố Victorville, miền Nam California. Nghề nghiệp nội trợ. Sau đây, thêm bài viết đầu năm mới của bà.
Chúc Mừng Năm Mới Kỷ Hợi 2019. Viết Về Nước Mỹ bắt đầu năm Canh Thìn 2000. Từ Thìn tới Hợi, vừa đúng 20 năm. Ngày đầu năm Hợi, xin mời đọc bài Tết của Lê Nguyễn Hằng. Tác giả là một cây bút nữ kỳ cựu tham gia Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua. Năm 2017, với bài viết “Ba Người Đàn Bà Tuổi Dậu”, bà nhận giải Vinh Danh Viết Về Nước Mỹ. Bài sau đây trích từ báo xuân Tết Kỷ Hợi 2019.
Tác giả định cư tại Pháp nhưng thường lui tới với nước Mỹ, tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010. Họp mặt giải thưởng năm 2011, bà đã bay từ Paris sang California để nhận giải Vinh Danh Tác Giả -thường được gọi đùa là giải Á Hậu. Mừng Tết Kỷ Hợi đang tới, mời đọc chuyện tình tất niên của tuổi hạc.
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, với bài “Tình người hoa nở”, tháng 12, “Mùa kỷ niệm” và “Chị em trung học Nữ Thành Nội.” Cô tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali và còn đi làm. Sau đây là bài viết thứ ba của cô.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Bài mới của tác giả kể về khóa Thiền Vipassanna 10 ngày mà bà đã tham dự. Bài trích từ báo xuân Việt Báo Tết Kỷ Hợi, đang phát hành khắp nơi.
Tác giả tên thật Quách Ngọc Ánh, sinh năm 1954, hiện là cư dân Garden Grove, CA. Trước 75 học Sư phạm Sai gon, một thời dạy học tại miền Trung Việt Nam, định cư tại Hoa kỳ theo diện H.O. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà từ Tháng Sáu 2013 là một hồi ức xúc động về việc đi tìm người thân chết khi vượt biển. Sau đây thêm một bài viết mới.
Tác giả tên thật là Trần Văn Hai, hiện đã là cư dân hưu trí tại Nashville, TN. Thư ông viết: Tôi thường xuyên theo dõi và đọc bài viết trên trang Việt báo online. Đây là bài viết tôi gởi về cho tòa soạn đầu tiên, mong nhận được sự góp ý. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là bước khởi hành tốt: gọn nhẹ, giản dị và thành thực. Mong tác giả tiếp tục.
Tác giả quê gốc Kinh 5 Rạch Giá, hiện là cư dân Seattle, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2010. Ba bài đã viết là chuyện 30 năm của gia đình bà: Vượt biển tới đảo tị nạn, sau 7 năm chờ đợi, bị buộc phải hồi hương. Nhờ chương trình ROV, gia đình vẫn tới được nước Mỹ, và với sức phấn đấu chung, tất cả đã đứng vững.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, hiện là cư dân Arkansas. Bà sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Tới Mỹ vào tháng 8, 1985, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016 và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, Dong Trinh có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Sau đây, thêm một bài mới của tác giả.
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà là chủ tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự năm thứ mười chín, 2018. Bài viết sau đây được trích từ báo xuân Việt Báo Tết Kỷ Hợi 2019, hiện đang phát hành khắp nơi.
Nhạc sĩ Cung Tiến