Hôm nay,  

Tháng Tư, Nhớ Toán “alo”

16/04/200400:00:00(Xem: 132291)
Người Viết: SÓNG THẦN
Bài số: 518-1055-vb4140404

Người viết là một cựu sĩ quan Không Quân VNCH, phi công lái trực thăng, hiện cư ngụ tại Orange County. Nhân dịp thêm một lần 30 Tháng Tư ông nhớ đồng đội quê xưa và gửi bài viết này, ký tên là Sóng Thân, danh hiệu truyền tin của Thuỷ Quân Lục Chiến ngày xưa.
*

Nếu không phải là dân phi hành biệt phái hành quân xa xôi thì hầu hết Không Quân, cũng như người ngoài không biết ALO là ai, họ làm nghề gì.
Tôi thường thấy ở mỗi tỉnh có một phi trường nho nhỏ và có một biệt đội Quan Sát L19 đóng ở gần toà tỉnh trưởng, và vị đại diện KQ ở đó thường được gọi là SQ Không Trợ.
Thế nhưng ở những Sư Đoàn Bộ Binh hay Sư Đoàn Tổng Trừ Bị lại có một toán chừng năm sáu người gọi là toán ALO.
Hồi chúng tôi (Phi Hành Đoàn Trực Thăng) biệt phái cho Tư Lệnh TQLC đang đóng ở Hương Điền cạnh phá Tam Giang thì chúng tôi ở chung với toán ALO này. Máy bay đậu túc trực ngay tại tuyến đầu này 24/24 ngoại trừ lúc đi lấy xăng ở Phú Bài hay Cây số 17 (Phong Điền).
Nằm ở đây không bị ăn đạn pháo như hồi tôi biệt phái bên Sư Đoàn Dù trong hướng núi.
Trưởng toán ALO là Đại uý Hoàn và phó là Trung uý Thái, hai ông được sự phụ giúp của ba HSQ truyền tin và một tài xế (Diễn, Ngà, Bảng, Mào).
Vì chúng tôi ở cùng nên toán trở thành hơi đông, nhà cửa bê bối nên ông Tướng thương tình có cho hai anh lính Đại Đội Tổng Hành Dinh qua giúp mấy việc lặt vặt hằng ngày.
Mỗi khi có cuộc hành quân thì cả toán đều túc trực tại Trung Tâm Hành Quân để điều động máy bay biệt phái đổ quân hay tải thương. Khi đụng trận lớn thì họ gọi máy bay Khu Trục oanh kích, hay Hoả Long yểm trợ soi sáng hoặc xạ kích ban đêm. Khi có máy bay bị bắn rơi (Hồi năm 72, phi tuần AD6 Skyraider ra làm thịt T54 ở Quảng Trị, và phi công Trần Thế Vinh đã gẫy cánh ở chiến trường này) thì phối hợp Trực Thăng Restcue và các tiểu đoàn TQLC để cứu Pilot. Những ngày khác thì chỉ cần một người trực tại TTHQ là đủ vì thực sự ít có việc gì để làm.
Hai SQ đều mặc đồ bay vì họ từng tốt nghiệp khoá hoa tiêu, nhưng theo chỗ tôi biết thì kể như họ bỏ bay luôn mà làm nghề ALO, có thể dịch đại là Tiền Sát Viên KQ hay SQ LL KQ. (Trong khi toán Hải Quân có cùng quân số thì được gọi là toán Hải Yểm mà chúng tôi chọc họ cứ gọi là toán Hải Ỉa).
Thầy trò mấy anh ALO vui buồn theo kiếp lính xa nhà, họ có một chiếc xe Jeep lùn riêng, ăn uống đạm bạc trong khi chúng tôi được ưu ái hơn vì được phụ cấp ăn trưa phi hành, lại còn được Chuẩn Tướng Lân cho ăn trưa.
Những ngày mưa miền Trung dài lê thê, gió lại lạnh nên mới ăn cơm chừng vài giờ sau đã thấy đói. Tôi nhờ chị Cao nhà ở kế bên bãi đáp TT mua dùm một vài gốc khoai mì rồi luộc.
Cây khoai mì ba tháng ở đây lùn xủn, củ rất nhiều, lại trồng trên đất cát nên khi nhổ lên họ để luôn cả gốc mà bán, mỗi củ chỉ lớn bằng ngón chưn cái nhưng dài hơn ba gang. Chị Cao chỉ lột lớp vỏ nâu mỏng ở ngoài, còn lớp vỏ dầy ở trong thì để nguyên. Chị bỏ một lớp lá dứa ở dưới trước khi nấu nên khi dở nồi khoai chín ra thì mùi thơm bay lừng như mùi lúa mới.
Trời thì mưa lạnh thở ra khói, chúng tôi lột đến đâu ăn đến đó. Bữa nào có tiền thì mua mấy hộp sữa đặc khui đổ ra dĩa mà chấm. Cái món ăn đặc biệt này 30 năm qua mà tôi vẫn còn nhớ.
Quận Hương Điền là một dải đất cát hẹp dài một đầu giáp Hải Lăng Quảng Trị, một đầu là cửa Thuận An nơi giòng Hương Giang đổ ra biển, còn hai bên mịt mù sương khói của biển Đông và Phá Tam Giang.
Ruộng lúa, vườn rẫy nơi đây khá tốt. Cá đồng cũng nhiều mà cá biển cũng lắm. Trong mỗi khoảnh ruộng vuông vắn, họ đào một chỗ trũng thấp xuống, thả vô vài cành tre, một ít bèo lục bình làm như cái ổ. Khi muốn bắt cá, người ta xùa nước cho ồn ào khuấy động, mấy anh cá chạy vội về nơi trú ẩn là cái ổ đó, thế là bị nôm chụp bắt không sót một anh.
Cảnh ruộng lúa xanh đẹp đẽ nhưng phải cẩn thận vì mỗi khoảng đường quê ngập nước là bao nhiêu con đỉa đang nằm phục kích, mỗi khi có tiếng chân khua động mặt nước là tụi nó nhao lên như bánh canh.
Chung quanh nhà hay khu xóm là luỹ tre bao kín để bớt gió bão nên chúng tôi tha hồ ăn măng. Nhưng măng ra có mùa nên người dân làm món măng chua để ăn dần mà hồi khởi đầu tôi không thể ngửi được mùi này.
Cuối năm 72 thì chiến cuộc tương đối lắng dịu nên dân chúng đã lục tục hồi cư, chợ Hương Điền ngày càng đông vui.


Ngay chỗ chợ có một bến tàu nhỏ chạy hằng ngày chở hàng nông phẩm, cá tôm và hành khách đi Huế, lúc về thì mang nhu yếu phẩm và cả nước đá về nữa.
Ở đây có nhiều thứ cá mà trong Nam tôi chưa bao giờ thấy như con cá chét, nó lớn bằng cẳng cái, giống con cá chạch lại hơi giống cá trê vì có râu. Con lệch cũng khác trong Nam, nó ngắn hơn con lươn, đuôi hơi xoè ra và có bông lốm đốm. Cá đối ngoài biển lớn như cổ tay cũng có khi tràn vô Phá hằng bày, người ta bao lưới rồi gõ ống tre vào mạn thuyền mà đuổi cho nó chạy phóng dính vô lưới.
Có khi mấy tuần liền cá đồng đi đâu mất biệt mà ngoài chợ bán toàn cá nục. Chúng tôi sáng ăn cá nục kho nhừ với bánh mì, trưa ăn canh cá nục nấu măng và khóm, chiều ăn cá nục chiên. Hôm sau thực đơn đổi ngược lại và một tháng sau thì cả bọn "đờn" ghê quá.
Khi tắm trên Phá, mình lội tới chỗ nước ngập ngang tới ngực, lấy chân mò tìm dưới xình sẽ thấy rất nhiều con trìa lớn bằng lòng bàn tay, vỏ nó màu xám đen. (ở Huế người ta không nói câm như hến mà lại nói trịt như trìa).
Con trìa thân đã lớn, mà thịt ở trong lại nhiều, nên luộc sơ cho nó há miệng ra, rồi gỡ thịt mà thái ra từng lát nhỏ vừa miếng, xào với hành, sốt cà chua thì nhậu ngon lắm.
Đến mùa khô, những ruộng lúa đều cạn nước được lên líp mà làm rẫy. Họ trồng bắp, ớt, nưa và dưa gang.
Cây nưa hơi giống cây môn nhưng cọng đặc và cứng hơn nhiều. Cọng nó không cần lột vỏ, thái ngang ra dùng để xào như nhiều loại rau khác, hoặc cắt khúc rồi chẻ ra để làm dưa hay kho chung với thịt ba rọi và mắm như dưa môn. Củ nó lớn hơn củ "môn lù" to bằng cái tô ông rồng. Chung quanh củ này còn có nhiều củ con lớn bằng con ốc bươu mà người ta gọi là chột nưa. Chột này luộc chín ăn ngon như củ từ vậy.
Dưa gang trồng trên đất pha cát rất tốt mà sao lạ, tôi ít thấy người Huế ăn dưa leo, họ khoái dưa gang hơn, mà ăn khi nó còn non chứ không ăn trái chín bở như người Bắc. Có lẽ nó lớn, dòn hơn dưa leo chăng. Dưa này làm gỏi trộn tôm thịt ăn ngay, hoặc làm dưa mắm từng vại lớn để đến mùa mưa bão có thức ăn dự phòng.
Dưa này trong Nam cũng làm nhiều, họ kêu là gài mắm.
Khi chiếm lại cổ thành Đinh Công Tráng rồi, TQLC đưa cả 3 Lữ Đoàn ra tuyến đầu Quảng Trị, mỗi Lữ Đoàn có 3 tiểu đoàn mà danh số xếp thành tên Lữ Đoàn luôn chứ không như bên Nhảy Dù. Đó là LĐ 147, LĐ 258 và LĐ 369 có nghĩa là Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên thuộc Lữ Đoàn 258.
Tuy ba đơn vị này giăng hàng ngang từ tiếp giáp với Dù phía trong núi và ra tới bờ biển, nhưng du kích và đặc công vẫn còn khe hở để xâm nhập. Chúng tôi tuy ở phía sau nhưng chưa hẳn là đã an toàn, bằng cớ là 5 người TQLC đi cùng với Th/s KQ Võ Văn Xôm đã bị chúng phục kích.
Hôm đưa xác Xôm về Đà Nẵng rồi trở ra, chúng tôi buồn héo hắt, cơm buổi trưa có trứng chiên và la ve con cọp mà không đứa nào nuốt trôi.
Đêm hôm đó trời mưa rả rích, tiếng máy điện của Bộ Tư Lệnh chạy rì rầm hoà với giọng ếch nhái ngoài ruộng thành một âm thanh thê lương.
Tôi ngồi nhìn ra màn mưa giăng qua ánh đèn vàng vọt, cái giếng chúng tôi thường kéo nước lên tắm nằm kia, hình bóng thằng Xôm vẫn mặc quần đùi vừa xối nước vừa ca lên vài câu vọng cổ.
(KQ ít người khoái vọng cổ vì cho đó là nhà quê, nhưng Xôm là người Sa Đéc nên cứ ông ổng hát mà chẳng sợ ai cười).
Căn nhà bên cạnh bỗng từng tràng tiếng chuột gáy lên:
-Te.. cực cực.. cực cực...
Tôi cũng là dân ruộng, đã từng nghe quen tiếng chuột đồng rồi, thế mà gai ốc nổi lên cùng mình. Quay nhìn nhóm KQ và hai anh TQLC nằm dãy giường bên kia thì tôi thấy cả bọn đều đã kinh hãi ngồi dậy trong mùng, anh nào anh nấy mắt tròn xoe.
Thằng Xôm thân với tôi lắm, nó coi tôi như sư phụ vừa dậy toán cho nó đi thi Tú Tài vừa chỉ vẽ cách cua đào sao cho dính.
Tôi ráng làm gan nói lớn:
-Thôi Xôm ơi, mày đừng về nhát anh em, nay đã kiếm được xác mày đưa về quê hương bên ông bà thì đã êm ấm phần mày rồi, xin mày có khôn thiêng thì phù hộ cho bạn bè qua cơn binh lửa.
Tiếng chuột lại rúc lên một hồi nữa:
-Te.. cực cực.. cực cực..
Rồi im luôn cho tới sáng.
*
Hơn hai năm kể từ Mùa Hè Đỏ Lửa, tôi sống với toán ALO chia xẻ ngọt bùi nơi vùng quê xa lắc đó, mà nay không biết ai còn ai mất.
Hôm qua, anh Đạt có email cho tôi nói rằng anh Thái đã chết ngay ngày thất thủ Huế, chết uổng khi chiến trận gần tàn.
Còn bao nhiêu đồng đội của tôi ngày ấy, nay anh em trôi dạt về đâu".

Sóng Thần

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,129,268
Tác giả hiện đang giảng dạy Việt ngữ Viện Đại Học UCR (University of California, Riverside). Bà thường xuyên tham gia sinh hoạt cộng đồng đặc biệt là góp phần duy trì văn hoá và ngôn ngữ Việt. Viết Về Nước Mỹ 2017, bà nhận giải Việt Bút Trùng Quang, dành cho những tác giả góp phần phát triển chữ Việt, văn hóa Việt tại hải ngoại.
Tác giả tên thật là Đặng Thống Nhất hiện cư ngụ với vợ tại Brooklyn Park, MN. Ông đã về hưu sau khi dạy Song Ngữ và ESL tại Khu Học Chính Minneapolis và Việt Ngữ tại Đại Học Minnesota. Ông cũng từng dạy Anh Văn thiện nguyện tại Trung hoa và Việt Nam và Việt Ngữ cho chùa Phật Ân tại Roseville, MN. Ông đã đoạt giải thưởng danh dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ 18. Bài mới nhất của ông được đăng 2 kỳ. Sau đây là phần kết.
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC của Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại tiểu bang South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bài mới nhất của tác giả viết nhân Ngày Lễ Vu Lan năm nay.
Tác giả đã góp bài Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu và hiện vẫn liên tục góp thêm nhiều bài viết giá trị. Là cựu giáo sư trung học ở Việt Nam trước năm 1975, vượt biên đến Mỹ năm 1984, ông đi học và trở lại nghề cũ. Sau nhiều năm dạy tại một trường công lập Mỹ ở San Jose, tác giả về hưu tại Riverside, Nam California.
Tác giả là cư dân Miami, đã góp nhiều bài viết tinh tế, cho thấy tấm lòng của ông với quê hương, quê hương, con người. Viết Về Nước Mỹ 2015, Y Châu nhận Giải Đặc Biệt. Bài mới của ông viết về lễ cưới của hai con Cúc Phương và Quang Nhật. Lễ cưới được tổ chức tại Texas 19/8/2017, kế cận mùa bão lụt.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, đã nhận giải bán kết 2002 với bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể về nơi cô làm việc, khi khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2001. Bài viết về nước Mỹ của Ngọc Anh cho năm thứ 18 là chuyện Bắc Houston, nơi cô đang sống, Tháng 8, 2017
Sau lớp tập cuối cùng trong ngày Thứ Sáu, Châu ngỏ lời mời vợ chồng Phong ra ngoài dùng cơm tối. Phong muốn thoái thác nhưng Châu nói nhân dịp sinh nhật của hắn; hơn nữa, hắn cũng muốn mượn cơ hội này để thảo luận với chàng về lời đề nghị mai mối mấy tuần trước.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông đã nhận giải Vinh Danh VVNM 2016, đồng thời, cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng trên dưới một triệu người đọc.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ, cho biết bà tên thật là Huỳnh Kim Oanh, sống tại tiểu bang Virginia. Trước 1975 tại Việt Nam đã làm thơ đăng báo. Đến Mỹ, hiện nội trợ việc nhà,
Tác giả quê quán ở Bến Tre, đi du học Mỹ năm 1973 và ở luôn cho tới ngày nay. TG gia nhập chương trình VVNM do Việt Báo tổ chức từ năm 2015. Năm đầu tiên, nhận được giải danh dự (2016)
Nhạc sĩ Cung Tiến