Hôm nay,  

Bóng Mát Của Chúng Tôi

23/06/200400:00:00(Xem: 122767)
Người viết: Nguyễn Đại Toàn
Bài tham dự: 567-1105 VB2210604

Bài của bạn Nguyễn Đại Toàn lần đầu được chuyển tới Việt Báo, viết với những tưởng nhớ nhân lễ Father’s Day vừa qua. Bài viết cho thấy vị trí của người cha trong nền nếp gia đình Việt tại Mỹ và được viết với lời ghi trân trọng "Để tưởng nhớ đến ba kính yêu của mẹ và chúng con."
*

Năm nay, gia đình chúng tôi có một Father’s day buồn nhất trong đời, vì ba vừa bỏ mẹ, bỏ con cháu về với “hạc nội mây ngàn” chỉ vài tuần trước. Chúng tôi, ngay cả con út của ba cũng đã vượt qua tuổi trưởng thành, đủ để đứng vững giữa đời sống không phải lúc nào cũng phẳng lặng bình yên, nhưng trong lòng mỗi chúng tôi vẫn có một khoảng trống không bao giờ lấp đầy.
Ngày ba còn sinh tiền, từ lúc chúng tôi còn nhỏ ở trong nước, ba dạy chúng tôi theo kỹ luật quân đội mà ba là vị tổng tư lệnh đầy uy quyền. Nhà đông anh chị em, bộ bàn ăn mười hai chỗ ngồi được ba sắp xếp vị trí cho từng đứa trong anh chị em chúng tôi theo thứ tự từ phải sang trái, từ lớn đến nhỏ. Lâu lâu, có một đứa phạm sai lầm cái ghế ở bàn ăn bỏ trống, ba bắt đứa phạm tội ngồi ăn dưới bếp để có thì giờ suy nghĩ và “ăn năn sám hối” lần sau không tái phạm lỗi của mình. Trời ở Huế, có những ngày mưa dầm lê thê, có lần tôi bị phạt, ngồi ăn dưới bếp, ngoài trời mưa, trên mặt tôi cũng mưa. Khỏi nói, chúng tôi sợ ba một phép nhưng cũng rất thương ba vì ba thưởng, phạt rất công minh, đứa nào ngoan, học giỏi luôn luôn được thưởng.
Lớn lên, bên đời lưu vong, ở Mỹ xa cách quê nhà cả một đại dương, ba vẫn giữ nề nếp cũ, chúng tôi lớn lên với giáo dục hết sức nghiêm khắc cùng lòng thương yêu vô bờ của ba mẹ. Một trong những kỹ luật của ba là không đứa nào được lái xe trước khi tốt nghiệp đại học. Con đông, nhưng ba mẹ vẫn thay phiên nhau đưa đón chúng tôi theo trình tự nhỏ trước lớn sau, vì “để em chờ lâu, tội”. Tan học, trong nhiều năm dài, tôi lần lượt chờ ba ở cổng trường trung học, rồi cổng trường đại học. Hồi đó, chưa có mobile phone, vả chăng ba còn phải đi làm, nên mỗi lần thầy bị bệnh được về sớm ba không thể đón sớm tôi vào thư viện ngồi làm bài tập, chờ đúng giờ ba đến đón.


Khi vào đại học, anh cả đã học hành xong xuôi, ba chuyển bớt quyền hành “tổng tư lệnh” qua cho anh, anh bắt đầu thay ba kiểm soát bài vở cho tôi, nhưng ba vẫn đưa đón tôi trong bốn năm đầu ở USC. Lúc đầu, tôi học pre-med theo yêu cầu của ba, vì “nhà đông, phải có một đứa học y khoa để có thể săn sóc được ba mẹ ở tuổi về chiều, sức khỏe yếu kém”. Nhưng học được ba quarters tôi chuyển qua ngành khác vì tự thấy năng khiếu của mình về y khoa kém hơn về khoa học kỹ thuật nhiều.
Khi chúng tôi trưởng thành, ba không còn phải dùng đến roi vọt nữa, nhưng cứ nhìn vẻ mặt của ba, chúng tôi hiểu là mình làm đúng hay sai, đi đúng đường, hay lệch hướng. Ở tuổi về chiều vị tổng tư lệnh của gia đình đã về hưu, nhưng uy quyền vẫn còn đó, và chúng tôi vẫn thương và sợ ba như thuở nào.
Ngày tháng càng qua đi, nỗi sợ bị phạt lúc nhỏ chuyển qua nỗi sợ mất ba. Như quy luật “tre tàn măng mọc” chúng tôi càng trưởng thành ba càng yếu đi. Khi ba trở bệnh nặng, mẹ vẫn vào ở cạnh ba mỗi đêm ở bệnh viện. Tôi vẫn ao ước, và sẽ cố gắng sống như ba để có một người bạn đời hết lòng với mình như mẹ đối với ba. Có lúc mẹ bệnh tôi vào ngủ đêm ở bệnh viện nhìn ba nằm thiêm thiếp, tôi vẫn ân hận tại sao mình không nổ lực thêm để hoàn thành học trình về y khoa như ba ao ước. Biết đâu, ba vui sống lâu thêm được với chúng tôi vài năm nữa.
Ngày ba đi hết vòng tròn sinh tử, bầu trời cuối xuân đầu hè của Los Angeles lẽ ra phải xanh ngát, lại kéo đầy mây đen như cùng chia xẻ nỗi mất mát lớn lao của mẹ và chúng tôi. Lần đầu tiên tôi cảm nhận được cảm giác mồ côi cha. Thì ra dù có lớn, có già đi nữa, mất cha hay mất mẹ vẫn là mất một nửa bầu trời. Là phái nam, tôi không khóc đến sưng mắt như các chị hay em gái nhưng tôi đã hiểu thế nào là nỗi đau mất người thân, nhất là người đó là một bóng mát lớn của gia đình.
Tôi sẽ cố làm hết sức để ba vui, mặc dù bây giờ tôi không bao giờ còn được thấy ánh mắt nghiêm khắc của ba sáng lên khi chúng tôi thành công hay làm điều dúng. Trái lại ánh mắt ba đầy trách móc, buồn vời vợi khi chúng tôi làm điều không phải. Nhưng ánh mắt đó, cùng với tấm lòng và sự chu đáo của ba sẽ ở trong tôi mãi mãi không nhòa.

Nguyễn Đại Toàn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 865,487,049
Tác giả đã nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ 2012. Nguyễn Văn cho biết ông sinh năm 1965, quê ở Phú Yên; Vượt biên năm 1988, hiện sống cùng gia đình tại Chicago. Cho tới nay, ông đã góp 4 bài: “Chuyện Của Bill”; “Tôi Không Là Ai Cả”; “Ngày Tháng Buồn Hiu”; “Mùa Thu Nashville.” Cả ba bài đều cho thấy cách viết tinh tế và sống động. Sau đây là bài viết thứ năm.
Sinh năm 1983, Kim Trần là tác giả trẻ tuổi nhất trong 12 tác giả vào chung kết Viết Về Nước Mỹ 2005 với bài viết ngắn nhất, 727 chữ, "Những bài học đầu tiên về nước Mỹ". Năm 2008, cô nhận thêm giải vinh danh tác giả với bài viết về ma tuý,v "Người Yêu Tôi: Một Con Nghiện." Sau khi tốt nghiệp ngành sư phạm tại đại học Cal State, Kim Trần đã tự sáng lập "School First Learning Center" và hiện có 2 trường dạy kèm rất thành công tại Garden Grove và Westminster. Sau đây là bài cô mới viết.
Đây là bài đầu tiên của một tác giả người Mỹ trực tiếp viết văn bằng Việt ngữ. Email kèm bài viết được ông xưng danh là “Steve Brown tức là Sáu.” Ông chính là “người Mỹ yêu tiếng Việt” mà tác giả Donna Nguyễn đã kể trong bài “Việt Bút, Việt Báo và Chú Sáu.” Mới đây, khi nhắc tới tài làm thơ Việt của ông,
Tác giả là một nhà giáo hưu trí, từng là Chủ tịch Hội Ái Hữu Ninh Thuận, hiện là cư dân Riverside, Nam Cali. Ông đã góp nhiều bài viết đặc biệt cho giải thưởng Việt Báo từ năm đầu tiên, và nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2009. Bài viết mới của ông có tựa đề “Fasting: Vô Chiêu Thắng Hữu Chiêu” gồm nhiều chi tiết đặc biệt sống động về việc điều trị bệnh động kinh. Sau đây là phần đầu.
Tác giả, một kỹ sư điện tử tại công ty Intel, Bắc California, đã 2 lần nhận giải Viết Về Nước Mỹ. Năm 2009, giải danh dự, với bài "Tình Nghĩa, Nghĩa Tình" và Giải Vinh Danh Tác Phẩm 2010 -thường được gọi đùa là giải á hậu- với bài “Việc Làm Ơi, Mi Đi Đâu? Bài viết sau đây đã đăng trong báo xuân Việt Báo Tết Nhâm Thìn, 2012, nhưng chưa có trên online nên xin bổ túc.
Bài viết là chuyện về bé Ti, qua Mỹ 4 năm trước, khi mới 7 tuổi. Vì một tai nạn xe hơi, “Ti bây giờ không còn gì nữa, má đã chết, chân trái Ti bị cụt, tay trái bầm dập.” Có thể tác giả cũng chính là nhân vật trong truyện kể, một bé gái còn ở tuổi thiếu niên. Chúc bé an lành và mong Nhật Mai liên lạc lại với Việt Báo.
Tác giả là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục naêm 2000, từng là nhà giáo trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA. Sau đây là bài mới nhất của ông.
Tác giả là cư dân Austin, Texas; Công việc: y tá trưởng trong một bệnh viện thành phố, đã góp nhiều bài viết sống động và nhận giải vinh danh tác giả Viết về nước Mỹ 2006. Bài mới của cô là một truyện gia đình Việt Mỹ và tình yêu đồng tính.
Tác giả dự viết về nước Mỹ từ năm đầu, từng nhận giải tác phẩm xuất sắc 2002, giải Việt Bút 2010 và hiện là thành viên ban giám khảo chung kết. Tác phẩm đã xuất bản: Chuyện Miền Thôn Dã. Sau đây là hai bài viết mới của ông. Tuy tựa đề kêu buồn nhưng không buồn chút nào.
Trước 30/4/1975, Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh từng viết nhiều truyện ngắn trên bán nguyệt san Tuổi Hoa, và các truyện dài xuất bản bởi Tủ Sách Tuổi Hoa - hiện có trên trang mạng: http://tuoihoa.hatnang.com/ và http://www.camlinguyenthimythanh.com Sau ngày 30/4/1975, Cam Li không viết nữa, chỉ chuyên làm công việc nghiên cứu khoa học.
Nhạc sĩ Cung Tiến