Hôm nay,  

Bóng Mát Của Chúng Tôi

23/06/200400:00:00(Xem: 122792)
Người viết: Nguyễn Đại Toàn
Bài tham dự: 567-1105 VB2210604

Bài của bạn Nguyễn Đại Toàn lần đầu được chuyển tới Việt Báo, viết với những tưởng nhớ nhân lễ Father’s Day vừa qua. Bài viết cho thấy vị trí của người cha trong nền nếp gia đình Việt tại Mỹ và được viết với lời ghi trân trọng "Để tưởng nhớ đến ba kính yêu của mẹ và chúng con."
*

Năm nay, gia đình chúng tôi có một Father’s day buồn nhất trong đời, vì ba vừa bỏ mẹ, bỏ con cháu về với “hạc nội mây ngàn” chỉ vài tuần trước. Chúng tôi, ngay cả con út của ba cũng đã vượt qua tuổi trưởng thành, đủ để đứng vững giữa đời sống không phải lúc nào cũng phẳng lặng bình yên, nhưng trong lòng mỗi chúng tôi vẫn có một khoảng trống không bao giờ lấp đầy.
Ngày ba còn sinh tiền, từ lúc chúng tôi còn nhỏ ở trong nước, ba dạy chúng tôi theo kỹ luật quân đội mà ba là vị tổng tư lệnh đầy uy quyền. Nhà đông anh chị em, bộ bàn ăn mười hai chỗ ngồi được ba sắp xếp vị trí cho từng đứa trong anh chị em chúng tôi theo thứ tự từ phải sang trái, từ lớn đến nhỏ. Lâu lâu, có một đứa phạm sai lầm cái ghế ở bàn ăn bỏ trống, ba bắt đứa phạm tội ngồi ăn dưới bếp để có thì giờ suy nghĩ và “ăn năn sám hối” lần sau không tái phạm lỗi của mình. Trời ở Huế, có những ngày mưa dầm lê thê, có lần tôi bị phạt, ngồi ăn dưới bếp, ngoài trời mưa, trên mặt tôi cũng mưa. Khỏi nói, chúng tôi sợ ba một phép nhưng cũng rất thương ba vì ba thưởng, phạt rất công minh, đứa nào ngoan, học giỏi luôn luôn được thưởng.
Lớn lên, bên đời lưu vong, ở Mỹ xa cách quê nhà cả một đại dương, ba vẫn giữ nề nếp cũ, chúng tôi lớn lên với giáo dục hết sức nghiêm khắc cùng lòng thương yêu vô bờ của ba mẹ. Một trong những kỹ luật của ba là không đứa nào được lái xe trước khi tốt nghiệp đại học. Con đông, nhưng ba mẹ vẫn thay phiên nhau đưa đón chúng tôi theo trình tự nhỏ trước lớn sau, vì “để em chờ lâu, tội”. Tan học, trong nhiều năm dài, tôi lần lượt chờ ba ở cổng trường trung học, rồi cổng trường đại học. Hồi đó, chưa có mobile phone, vả chăng ba còn phải đi làm, nên mỗi lần thầy bị bệnh được về sớm ba không thể đón sớm tôi vào thư viện ngồi làm bài tập, chờ đúng giờ ba đến đón.


Khi vào đại học, anh cả đã học hành xong xuôi, ba chuyển bớt quyền hành “tổng tư lệnh” qua cho anh, anh bắt đầu thay ba kiểm soát bài vở cho tôi, nhưng ba vẫn đưa đón tôi trong bốn năm đầu ở USC. Lúc đầu, tôi học pre-med theo yêu cầu của ba, vì “nhà đông, phải có một đứa học y khoa để có thể săn sóc được ba mẹ ở tuổi về chiều, sức khỏe yếu kém”. Nhưng học được ba quarters tôi chuyển qua ngành khác vì tự thấy năng khiếu của mình về y khoa kém hơn về khoa học kỹ thuật nhiều.
Khi chúng tôi trưởng thành, ba không còn phải dùng đến roi vọt nữa, nhưng cứ nhìn vẻ mặt của ba, chúng tôi hiểu là mình làm đúng hay sai, đi đúng đường, hay lệch hướng. Ở tuổi về chiều vị tổng tư lệnh của gia đình đã về hưu, nhưng uy quyền vẫn còn đó, và chúng tôi vẫn thương và sợ ba như thuở nào.
Ngày tháng càng qua đi, nỗi sợ bị phạt lúc nhỏ chuyển qua nỗi sợ mất ba. Như quy luật “tre tàn măng mọc” chúng tôi càng trưởng thành ba càng yếu đi. Khi ba trở bệnh nặng, mẹ vẫn vào ở cạnh ba mỗi đêm ở bệnh viện. Tôi vẫn ao ước, và sẽ cố gắng sống như ba để có một người bạn đời hết lòng với mình như mẹ đối với ba. Có lúc mẹ bệnh tôi vào ngủ đêm ở bệnh viện nhìn ba nằm thiêm thiếp, tôi vẫn ân hận tại sao mình không nổ lực thêm để hoàn thành học trình về y khoa như ba ao ước. Biết đâu, ba vui sống lâu thêm được với chúng tôi vài năm nữa.
Ngày ba đi hết vòng tròn sinh tử, bầu trời cuối xuân đầu hè của Los Angeles lẽ ra phải xanh ngát, lại kéo đầy mây đen như cùng chia xẻ nỗi mất mát lớn lao của mẹ và chúng tôi. Lần đầu tiên tôi cảm nhận được cảm giác mồ côi cha. Thì ra dù có lớn, có già đi nữa, mất cha hay mất mẹ vẫn là mất một nửa bầu trời. Là phái nam, tôi không khóc đến sưng mắt như các chị hay em gái nhưng tôi đã hiểu thế nào là nỗi đau mất người thân, nhất là người đó là một bóng mát lớn của gia đình.
Tôi sẽ cố làm hết sức để ba vui, mặc dù bây giờ tôi không bao giờ còn được thấy ánh mắt nghiêm khắc của ba sáng lên khi chúng tôi thành công hay làm điều dúng. Trái lại ánh mắt ba đầy trách móc, buồn vời vợi khi chúng tôi làm điều không phải. Nhưng ánh mắt đó, cùng với tấm lòng và sự chu đáo của ba sẽ ở trong tôi mãi mãi không nhòa.

Nguyễn Đại Toàn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 865,734,380
Tác giả sống tại Ottawa, Ontario, Canada từ 1980. Bút hiệu là tên trường học nơi Minh Thành từng dạy môn Sinh - Hoá từ cuối thập niên 70. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của Minh Thành kể chuyện gia đình "Người Mỹ Hàng Xóm.". Bài gần nhất là: “Nội soi ruột già.” Bài mới được ghi là “Thuật lại lời kể của người anh họ tôi.”
Tác giả vào danh sách chung kết Viết Về Nước Mỹ 2012 với bài "Cô Em Cùng Dòng Khác Họ," kể về người con gái vị thuyền trưởng Đại Hàn từng cứu mạng các thuyền nhân Việt trên Biển Đông và là khách danh dự tại Little Saigon.
Với bài “Đoá Hồng Bạch” tưởng niệm một nữ sĩ quan Mỹ gốc Việt hy sinh tại chiến trường Trung Đông, Nhất Chi Mai là tác giả nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2012. Tác giả hiện là cư dân Boston và làm việc trong một bệnh viện của tập đoàn Partners. Hình bên là quang cảnh “Ngày Summer Picnic” ở bệnh viện tác giả đang làm việc. Bài viết kể về những suy nghĩ, trò truyện từ sinh hoạt vui vẻ này.
Tác giả là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục năm 2000, từng là nhà giáo trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA. Bài mới của ông là một hồi ức thời vượt biển.
Bài viết sau đây của Phương Dung kể chuyện Viết Về Nước Mỹ 2011, đã phổ biến trên báo in, nhưng vì sơ xuất kỹ thuật, bị “thất tung” trên Việt Báo Online. Sắp tới họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12, xin mời cùng đọc lại.
Tác giả đến Hoa Kỳ theo diện H.O. đầu thập niên 90, hiện là cư dân Berry Hill, Tennessee, làm việc trong Artist room của một công ty Mỹ, từng cộng tác với một số tạp chí và các trang Việt ngữ trên mạng internet. Viết Về Nước Mỹ 2012, bà đã góp hai bài viết “Tiệm Tạp Hoá” và "Người Đàn Bà Ấy Là Mẹ Tôi." Sau đây là bài viết mới nhất.
Kông Li là bút hiệu vui vẻ của Phạm Công Lý, tác giả đã có nhiều bài viết về nước Mỹ giá trị, đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2011. Là một cựu sĩ quan VNCH, cựu tù, ông cùng gia đình đến Mỹ từ tháng 11/1994 theo diện HO, định cư tại Boston. Công việc từng làm: thông dịch cho Welfare, social worker, phụ giáo, tutor toán ở Middle School của Boston Public Schools. Bài mới nhất của ông là chuyện của nhiều câu chuyện vui buồn trong nghề thông dịch.
Tác giả cho biết trước năm 75, khi còn đi học, chỉ viết cho các báo thiếu nhi, học trò. Qua Mỹ từ 1990, hiện là cư dân Myrtle Beach, SC. Hải Âu tham dự viết về nước Mỹ từ 2010, bài đầu tiên: Mẹ Chồng, cho thấy tác giả có bút pháp đặc biệt, khi kể về hồn thiêng yêu thương của bà mẹ. Bài viết mới của cô là một chuyện tình.
Với bút hiệu Xuân Đỗ, tác giả đã góp nhiều bài đặc biệt và nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2008 với bài viết "Hắn và cuốn Nhật Ký Đặng Thuỳ Trâm..." Ông định cư tại Mỹ theo diện H.O. và hiện là cư dân Riverside, làm Guest Teacher cho Colton Joint Unified School District (nam California). Mong tác giả sẽ tiếp tục viết.
Trần Nguyên Đán là bút hiệu của Mục sư Lữ Thành Kiến, quản nhiệm Hội Thánh Fort Worth, Texas. Sau giải vinh danh tác giả Viết Về Nước Mỹ năm 2007, ông nhận thêm giải Việt Bút 2009 và là thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2010-2011. Ngoài Việt Báo Online, nhiều thơ và truyện ngắn của ông hiện có trên tạp chí văn chương trên mạng internet, như da mầu, tiền vệ.
Nhạc sĩ Cung Tiến