Hôm nay,  

Bóng Mát Của Chúng Tôi

23/06/200400:00:00(Xem: 122441)
Người viết: Nguyễn Đại Toàn
Bài tham dự: 567-1105 VB2210604

Bài của bạn Nguyễn Đại Toàn lần đầu được chuyển tới Việt Báo, viết với những tưởng nhớ nhân lễ Father’s Day vừa qua. Bài viết cho thấy vị trí của người cha trong nền nếp gia đình Việt tại Mỹ và được viết với lời ghi trân trọng "Để tưởng nhớ đến ba kính yêu của mẹ và chúng con."
*

Năm nay, gia đình chúng tôi có một Father’s day buồn nhất trong đời, vì ba vừa bỏ mẹ, bỏ con cháu về với “hạc nội mây ngàn” chỉ vài tuần trước. Chúng tôi, ngay cả con út của ba cũng đã vượt qua tuổi trưởng thành, đủ để đứng vững giữa đời sống không phải lúc nào cũng phẳng lặng bình yên, nhưng trong lòng mỗi chúng tôi vẫn có một khoảng trống không bao giờ lấp đầy.
Ngày ba còn sinh tiền, từ lúc chúng tôi còn nhỏ ở trong nước, ba dạy chúng tôi theo kỹ luật quân đội mà ba là vị tổng tư lệnh đầy uy quyền. Nhà đông anh chị em, bộ bàn ăn mười hai chỗ ngồi được ba sắp xếp vị trí cho từng đứa trong anh chị em chúng tôi theo thứ tự từ phải sang trái, từ lớn đến nhỏ. Lâu lâu, có một đứa phạm sai lầm cái ghế ở bàn ăn bỏ trống, ba bắt đứa phạm tội ngồi ăn dưới bếp để có thì giờ suy nghĩ và “ăn năn sám hối” lần sau không tái phạm lỗi của mình. Trời ở Huế, có những ngày mưa dầm lê thê, có lần tôi bị phạt, ngồi ăn dưới bếp, ngoài trời mưa, trên mặt tôi cũng mưa. Khỏi nói, chúng tôi sợ ba một phép nhưng cũng rất thương ba vì ba thưởng, phạt rất công minh, đứa nào ngoan, học giỏi luôn luôn được thưởng.
Lớn lên, bên đời lưu vong, ở Mỹ xa cách quê nhà cả một đại dương, ba vẫn giữ nề nếp cũ, chúng tôi lớn lên với giáo dục hết sức nghiêm khắc cùng lòng thương yêu vô bờ của ba mẹ. Một trong những kỹ luật của ba là không đứa nào được lái xe trước khi tốt nghiệp đại học. Con đông, nhưng ba mẹ vẫn thay phiên nhau đưa đón chúng tôi theo trình tự nhỏ trước lớn sau, vì “để em chờ lâu, tội”. Tan học, trong nhiều năm dài, tôi lần lượt chờ ba ở cổng trường trung học, rồi cổng trường đại học. Hồi đó, chưa có mobile phone, vả chăng ba còn phải đi làm, nên mỗi lần thầy bị bệnh được về sớm ba không thể đón sớm tôi vào thư viện ngồi làm bài tập, chờ đúng giờ ba đến đón.


Khi vào đại học, anh cả đã học hành xong xuôi, ba chuyển bớt quyền hành “tổng tư lệnh” qua cho anh, anh bắt đầu thay ba kiểm soát bài vở cho tôi, nhưng ba vẫn đưa đón tôi trong bốn năm đầu ở USC. Lúc đầu, tôi học pre-med theo yêu cầu của ba, vì “nhà đông, phải có một đứa học y khoa để có thể săn sóc được ba mẹ ở tuổi về chiều, sức khỏe yếu kém”. Nhưng học được ba quarters tôi chuyển qua ngành khác vì tự thấy năng khiếu của mình về y khoa kém hơn về khoa học kỹ thuật nhiều.
Khi chúng tôi trưởng thành, ba không còn phải dùng đến roi vọt nữa, nhưng cứ nhìn vẻ mặt của ba, chúng tôi hiểu là mình làm đúng hay sai, đi đúng đường, hay lệch hướng. Ở tuổi về chiều vị tổng tư lệnh của gia đình đã về hưu, nhưng uy quyền vẫn còn đó, và chúng tôi vẫn thương và sợ ba như thuở nào.
Ngày tháng càng qua đi, nỗi sợ bị phạt lúc nhỏ chuyển qua nỗi sợ mất ba. Như quy luật “tre tàn măng mọc” chúng tôi càng trưởng thành ba càng yếu đi. Khi ba trở bệnh nặng, mẹ vẫn vào ở cạnh ba mỗi đêm ở bệnh viện. Tôi vẫn ao ước, và sẽ cố gắng sống như ba để có một người bạn đời hết lòng với mình như mẹ đối với ba. Có lúc mẹ bệnh tôi vào ngủ đêm ở bệnh viện nhìn ba nằm thiêm thiếp, tôi vẫn ân hận tại sao mình không nổ lực thêm để hoàn thành học trình về y khoa như ba ao ước. Biết đâu, ba vui sống lâu thêm được với chúng tôi vài năm nữa.
Ngày ba đi hết vòng tròn sinh tử, bầu trời cuối xuân đầu hè của Los Angeles lẽ ra phải xanh ngát, lại kéo đầy mây đen như cùng chia xẻ nỗi mất mát lớn lao của mẹ và chúng tôi. Lần đầu tiên tôi cảm nhận được cảm giác mồ côi cha. Thì ra dù có lớn, có già đi nữa, mất cha hay mất mẹ vẫn là mất một nửa bầu trời. Là phái nam, tôi không khóc đến sưng mắt như các chị hay em gái nhưng tôi đã hiểu thế nào là nỗi đau mất người thân, nhất là người đó là một bóng mát lớn của gia đình.
Tôi sẽ cố làm hết sức để ba vui, mặc dù bây giờ tôi không bao giờ còn được thấy ánh mắt nghiêm khắc của ba sáng lên khi chúng tôi thành công hay làm điều dúng. Trái lại ánh mắt ba đầy trách móc, buồn vời vợi khi chúng tôi làm điều không phải. Nhưng ánh mắt đó, cùng với tấm lòng và sự chu đáo của ba sẽ ở trong tôi mãi mãi không nhòa.

Nguyễn Đại Toàn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,406,522
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến