Hôm nay,  

Chuyện “anh Ấy” Và Tôi

05/03/200500:00:00(Xem: 104353)

Người viết: NGUYỄN NGA
Bài số 695-1273-44-vb6-040305

Tác giả tên thực là Nguyễn Nga, 42 tuổi, hiện là cư dân Tucson, AZ; Nghề nghiệp: Thợ nail, tóc. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là một chuyện tình trắc trở nhưng có hậu, happy ending.
*

Ngày chia tay với Mẹ cùng các em để theo ba lên tàu đi vượt biên tìm tương lai và đất sống, tôi đã khóc thật nhiều... Nhớ Mẹ, nhớ các em và nhớ mảnh đất quê hương mà tôi đã từng chia sẻ bao kỷ niệm vui buồn.
Sau bao ngày lênh đênh trên biển, với những vất vả, vật vờ cùng cực, rồi thì cũng tới được bên bờ tự do. Ở đảo được một năm thì ba và tôi được nhận định cư ở Mỹ, nói sao cho hết nỗi vui mừng của những ngày sắp tới. Tôi, ăn chưa no, lo chưa tới, chỉ biết vui và hân hoan mong chờ ngày tới thiên đàng của Mỹ quốc.
Xuống phi trường Mỹ quốc, gia đình tôi được những người hảo tâm ra đón rước, họ thật tốt lo chỗ ăn chỗ ở cho chúng tôi, hướng dẫn đi làm giấy tờ và giúp cho ba có công ăn việc làm, còn phần tôi thì được vào trường học.
Anh ấy! Anh ấy có mặt khi tôi bước chân tới Mỹ, anh ấy thường xuyên tới thăm hỏi, giúp đỡ khi gia đình tôi gặp khó khăn, anh thường kèm tôi làm bài tập, an ủi khuyến khích mỗi khi thấy tôi buồn, nói chung sự hiện diện của anh giống như là một người thân trong gia đình không thể thiếu được.
Anh ấy 22 tuổi, cao lớn, dễ nhìn, vui vẻ, bặt thiệp. Còn tôi thì với lứa tuổi 13, bé nhỏ, rụt rè, nhút nhát lại thêm tánh tự ti, đi học thì không giỏi, hay buồn, ưa khóc và dễ giận dỗi. Anh đến với gia đình tôi như cơn gió mát, đem đến cho tôi niềm an ủi yên bình. Theo thời gian không biết tự lúc nào tôi đã yêu anh, 13 tuổi chăng" 15 tuổi chăng" hay năm 17" Tôi cũng không biết nữa. Mỗi khi anh bận không tới là tôi buồn, tôi giận, tôi nhớ anh ấy. Tôi yêu với mối tình say đắm câm lặng.
Năm tôi gần 18 tuổi thì anh ấy ngỏ lời yêu mến với tôi. Ôi! còn nỗi vui mừng nào hơn, tôi như sống trong mơ, trong mộng, tôi vui mừng khôn xiết, tôi vui, tôi cười, tôi hát một mình khe khẽ suốt ngày. Ba ngạc nhiên bảo: "Con này bộ mày khùng à!". Năm ấy tôi có 2 tin mừng, một là anh ấy đã tỏ tình với tôi, hai là được tin mẹ và các em sắp qua đoàn tụ.
Ngày mẹ và các em qua, chúng tôi, ngũ long công chúa thật vui khi gặp lại nhau, căn nhà như chật chội hơn, ồn ào hơn và ba một lần nữa lại phải vất vả đi tìm nhà lớn hơn. Sau bao nhiêu năm nhìn ba cô đơn buồn phiền nhớ me,ï ba nay đã già hơn, tóc cũng đã nhuộm màu muối tiêu, niềm vui đã loé trên mắt ba, mẹ thì cằn cỗi, đen, ốm và thật tội nghiệp. Ôi! tôi một cô gái đa sầu, đa cảm, thương ba, nhớ mẹ thường khóc thầm cầu mong ơn trên cho gia đình được gặp lại nhau, nay giấc mơ đã thành sự thật.
Tôi thường gặp anh ở sân trường đại học (tôi đã vào đại học năm thứ nhất). Tâm sự kể lể cho anh nghe niềm vui cũng như nỗi buồn mà tôi đang có, anh không có cha mẹ ở đây cho nên anh rất chia sẻ niềm vui của tôi. Anh thường ôm tôi vào lòng để an ủi vỗ về.
Một năm sau mẹ và tôi đã bắt đầu có những cơn chống đối. Mẹ thì cho tôi là quá Mỹ hoá, không biết vâng lời như các em, mẹ ngăn cản tình yêu giữa tôi và anh bởi vì anh ấy nghèo, không địa vị, không sự nghiệp. Ngày anh qua nhà xin ba mẹ cho 2 đứa được cưới nhau, mẹ từ chối thẳng và bảo anh đừng nên lui tới nhà nữa.


Chia tay cùng anh ấy ở sân trường đại học với hai hàng nước mắt như mưa, tôi sống dở, chết dở, yêu không đặng mà sống với nhau cũng chẳng đừng. Ngày nghe tin anh ấy lấy vợ, tim tôi tan nát, tôi đã quyên sinh nhưng lại được cứu sống. Tôi sống vật vờ, không ăn, không ngủ, chỉ muốn chết thôi! Cho đến lúc mẹ không chịu nổi nữa phải dọn nhà đi tiểu bang khác.
Một năm sau chúng tôi lại dọn về chốn cũ, vì mẹ không chịu nổi thời tiết khắc nghiệt bên đó. Vết thương của tôi đã tạm lành. Tôi không còn đi học nữa, tôi xin vào làm ở một hãng Mỹ. Những tuần đầu thật bình lặng, vài anh chàng Mỹ lảng vảng ve vãn, nhưng lòng tôi đã chết. Tôi chỉ vùi đầu vào công việc để tâm hồn không còn khoảng trống nào nữa. Vài tháng sau tôi gặp lại anh ấy (anh làm ở một ngành khác, cùng một hãng). Anh thật ốm, dáng cao gầy phiền muộn, anh nhìn tôi và nói: "Em ơi anh khổ quá! Anh thật là nhớ em". Tôi khóc như mưa, bỏ làm ra về và nằm bẹp suốt ngày. Sau vài ngày, vài tuần và vài tháng chúng tôi đã dan díu với nhau. Tôi không thể xa anh ấy, cũng như anh ấy không thể xa tôi.
Tôi đã từng trách anh sao vội vàng đi lấy vợ, anh chỉ biết xin lỗi và phiền muộn phân trần, anh quá cô đơn, quá đau khổ. Trong một lúc nông nổi giận hờn anh đã lấy vợ mặc dù anh chẳng yêu nàng. Cuộc sống vợ chồng của anh đã thất bại, cả hai đều không hợp nhau, cô ấy thường la mắng, khinh khi anh cho đến lúc anh gặp lại tôi. Chúng tôi những kẻ yêu nhau mê muội, bỏ mặc ngoài tai những lời đàm tiếu để yêu nhau, đến với nhau trong mặc cảm phạm tội và cuối cùng thì tôi cũng đã có mang. Tôi lê tấm thân tàn về khóc than với mẹ, xin được lời tha thứ, nhưng mẹ la mắng và tàn nhẫn đuổi tôi đi. Ba nhìn tôi bằng ánh mắt thương hại, vuốt đầu tôi và khẽ bảo, đừng giận mẹ con nhé! Mẹ đã suốt đời khổ cực hy sinh cho ba và các con, cho nên ba cũng không biết nói sao cho mẹ tha thứ cho con nữa, thôi thì hãy để thời gian mẹ nguôi giận rồi con trở về xin lỗi mẹ vậy!
Tôi và anh về sống chung với nhau, giữa một cảnh hai quê làm lòng tôi tan nát. Vợ anh thường gọi phone đến để mắng chửi tôi luôn, tôi chỉ biết khóc và ngỏ lời xin lỗi (cô ấy chưa có con với anh) thành ra cô ấy hận thù chúng tôi vô cùng. Ngày con tôi chào đời, tôi nhìn con mà tủi hổ, mong rằng sau này lớn lên con sẽ tha thứ cho mẹ. Tôi đề nghị chia tay nhưng anh không chịu, chúng tôi sống với nhau như trong cơn ác mộng, cho tới ngày anh bỏ hết tất cả, bất chấp tất cả để cuối cùng thì cũng có tờ giấy ly dị trong tay.
Chúng tôi làm lễ cưới trong vòng đơn giản, vài người bạn thân, một buổi tiệc nho nhỏ, với cô dâu xinh xinh tay cầm cành hoa trắng, con gái chúng tôi cười thật ngây thơ, có lẽ nó chia xẻ với niềm vui của ba mẹ. Ba năm sau chúng tôi có thêm một chú nhóc nữa, và bây giờ thì mẹ đã tha thứ cho tôi (nhờ công sức của ba và các em).
Giáng sinh năm đó đại gia đình tôi quây quần bên nhau trong ánh lửa bập bùng, mẹ cười đùa cùng các cháu, sau khi phân phát quà xong, mẹ vui vẻ tiến về phía tôi và khẽ nói: Mẹ cầu chúc cho các con được nhiều hạnh phúc...

NGUYỄN NGA

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 856,427,720
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2011. Tên chàng là Nguyễn Thy, ông xã của tác giả Nguyễn Trần Phương Dung, giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2011. Hai mươi năm, bộ sách lịch sử ngàn người viết đưa tới nhiều thân tình giữa các tác giả. Bút hiệu 'Tê Hát I Cờ Rét' được chọn theo cách Cụ bà Trùng Quang gọi tên chàng theo lối đánh vần kiểu Bắc kỳ cũ. Bài viết mới nhất của THY đăng 2 kỳ.Tiếp theo và hết.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2011. Tên chàng là Nguyễn Thy, ông xã của tác giả Nguyễn Trần Phương Dung, giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2011. Hai mươi năm, bộ sách lịch sử ngàn người viết đưa tới nhiều thân tình giữa các tác giả. Bút hiệu 'Tê Hát I Cờ Rét' được chọn theo cách Cụ bà Trùng Quang gọi tên chàng theo lối đánh vần kiểu Bắc kỳ cũ. Bài viết mới nhất của THY được ghi “Hè 2019, kỷ niệm 30 năm tìm được “cái xương sườn cụt của tôi”. Bài đăng 2 kỳ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ 2019 khi gần 90 tuổi. Bà tên thật là Nguyễn thị Ngọc Hạnh. Trước 1975, là giáo sư đệ nhị cấp tại Trung học Nguyễn Trãi. Cùng gia đình tới Mỹ từ 1979, hiện là cư dân hưu trí tại miền Đông. Bài viết thứ sáu của bà kể về mùa lễ Chiến Sĩ Trận Vong 2019 tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn.
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, 2018, Bà tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali và còn đi làm. Bài viết thứ 7 của bà được viết trong ngày lễ Phật Đản.
Tác giả là một cựu tù cải tạo vượt ngục và là người lái tầu vượt biển tới Philippine năm 1989. Định cư tại Mỹ từ 1990, ông hiện là cư dân Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông và Châu Phi. Lần đầu góp bài dự Viết Về Nước Mỹ, ông đã liên tiếp nhận các Giải Biệt VVNM 2017; giải Danh Dự VVNM 2018. Sang năm 2019, ông góp thêm 7 bài viết mới. Hai bài tiêu biểu: "Đời Phi Công...Không Người Lái," và bài mới nhất, "Philippinnes, Ngày Trở Lại": người thuyền nhân trại Pallawan 30 năm trước, nay là một công dân Mỹ trở lại giúp mảnh đất ơn nghĩa năm xưa chống khủng bố.
Chào mừng tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Bà cho biết là nhà giáo về hưu, sống tại Canada từ năm 1981. Mong bà tiếp tục viết.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Bai mới đăng 2 kỳ. Tiếp theo và hết. (Ấn bản chủ nhật có sự sai sót. Xin đăng lại phần đúng và trân trọng cáo lỗi.)
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Sau đây thêm một bài viết mới.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả tên thật Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, khoá 19 Võ Bị. Mậu Thân 1968, ông là một Đại Đội Trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến tại trận địa Phú Lâm, Chợ Lớn. Tháng Tư 1975, ở với đồng đội ven đô cho tới giờ phút cuối, sau đó là 10 năm tù công sản. Định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO1, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải á khôi năm 2014. Tác phẩm đang trình làng: Nửa Đường. Kính mời tham dự buổi ra mắt trưa Chủ Nhật 2-6-19. Tác giả tên thật Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, khoá 19 Võ Bị, 50 năm lính với Chiến Thương Bội Tinh. Mậu Thân 1968, ông là một Đại Đội Trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến tại trận địa Phú Lâm, Chợ Lớn. Tháng Tư 1975, ở với đồng đội ven đô cho tới giờ phút cuối, sau đó là 10 năm tù công sản. Định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO1, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải á khôi năm 2014. Tác phẩm đang trình làng: Nửa Đường. Kính mời tham dự buổi ra mắt trưa Chủ Nhật 2-6-19.
Nhạc sĩ Cung Tiến