Hôm nay,  

Tình Người Nơi Miền Bắc

15/05/200500:00:00(Xem: 272992)
Người viết: SAO NAM TRẦN NGỌC BÌNH
Bài số 748-1327-94-vb8150505

Tác giả Sao Nam Trần Ngọc Bình, cựu sĩ quan VNCH, cựu tù cải tạo, hiện là cư dân Greenville, tiểu bang South Carolina. Bài viết của ông lần này kể về một kỷ niệm đặc biệt thời đi tù cải tạo tại miền Bắc.
*

Nhân đọc bài "Tạp ghi" của ký giả Lô Răng đăng trên Ngày Nay số 541 ngày 01 tháng 1 năm 2004, nói về chuyện ăn mía thì tôi thấy tôi và bạn tôi, anh H. đã may mắn hơn nhiều, so với ông ký giả thuộc bậc đàn anh trong quân đội - nếu tính về cấp bậc cũng như về tuổi tác.
Hồi đó, chúng tôi bị đưa ra "cải tạo" ở Lào Cai. Trại giam ở trong một thung lũng, bao quanh là những ngọn đồi. Nơi chốn địa ngục này chỉ có sinh vật duy nhất là con vắt sinh sống mà thôi, theo như lời dân địa phương cho chúng tôi biết sau này. Tuy nhiên, tại nơi này chúng tôi vẫn có thể phóng tầm mắt để thấy lờ mờ dãy núi Hoàng Liên Sơn qua lànø sương mù trắng đục. Vì nơi đây giao thông cách trở nên mỗi khi trại gần cạn lương thực là chúng tôi phải lội bộ đi tải lương về.
Cứ mỗi lần đi như vậy là phải vượt qua một cái đèo tuy không cao lắm nhưng bụng đói thì dĩ nhiên chân phải run và vì thế mỗi bước chân của người tù khốn khổ hình như lại làm cho đèo "cao" thêm và"dài thêm" ra, thêm mãi hình như bất tận.
Kiếp tù khổ sai không án, ngày ngày thì leo lên đồi chặt tre, đốn gỗ y như số phận của người lính thú đời xưa:
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Thân tù "cải tạo " phàn nàn cùng ai
Một hôm, ùnhân lúc rảnh rỗi, tôi ra chỗ vắng hỏi anh T., anh bạn cùng khóa, xem có hy vọng gì thoát khỏi cảnh tù đầy này không thì anh khuyến khích tôi cứ chịu đựng, sau này lời nói của anh lại đúng phong phóc mà không cần gieo quẻ như Quỷ Cốc Tử tiên sinh:
“Ráng giữ sức khỏe, sẽ đến ngày dù họ có muốn bỏ tù mình đễ trả thù và đày đọa vợ con mình ở nơi" nhà tù lớn" cũng không được nữa mà sẽ phải thả mình ra cho mình đi nước ngoài sống. Cứ yên tâm.“
Đi lấy lương thực mà chúng tôi không có được một cái bao để đựng nhưng do sáng kiến của anh em, chúng tôi buộc hai ống quần của bộ đồ trận của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà họ đã tịch thu được để phát cho mỗi người tù hai bộ, rồi đổ bột mì đến ngang chỗ đáy quần, buộc thắt ngang ở chỗ này rồi đeo vào cổ và trở về trại tù. Lần nào cũng vậy, thế nhưng lần này, khi đến kho thì được lệnh trở về vì trong kho trống rỗng, lương thực chưa về kịp, thế là, chúng tôi chẳng ai bảo ai đều lầm lũi vượt đèo cho mau để trở về trại tù trước khi trời tối.
Cứ lầm lầm, lũi lủi đoàn tù uốn éo, vòng vèo, quanh co mải miết leo đèo, không ai nói với ai một lời, như đoàn âm binh đi giữa ban ngày. Chẳng ai bảo ai, như những người câm, chúng tôi cùng cúi đầu lặng lẽ bước, người phía trên, kẻ phía dưới như cùng thầm bảo nhau cố gắng thu ngắn khoảng cách giữa dốc đèo và đỉnh đèo. Một lúc sau, trong khi đang cố gắng leo dốc tôi nghe một tiếng "huỵch" ở phía sau, nặng nề vang lên. Giật mình, tôi quay lại, phản xạ rất tự nhiên, vừa ráng chạy xuống đèo vùa nghĩ: "Chết rồi, thân ốc không mang nổi mình ốc, lại còn phải lo cho ông này nữa". Tới chỗ anh bạn bị té, tôi ngồi xuống, nhẹ nhàng xoay người anh lại để anh nằm ngửa, nới thắt lưng cho anh dễ thở thì cũng vừa lúc đó một giọng nói đầy ngạc nhiên từ sau lưng tôi vang lên:
- A, anh cũng học ngành y à!
Giật mình, tôi quay đầu lại, ngửng lên thì ra là anh y tá đi theo đoàn tù đang đứng ở phía sau lúc nào mà tôi không hay. Tôi bèn bình thản trả lời:
- Đây là kiến thức phổ thông mà, ở trong Nam, ai mà không biết điều này, cán bộ.
Vừa trả lời, tôi vừa đứng lên, lách mình tránh lối, để nhường chỗ cho anh y tá ngồi xuống cạnh nạn nhân. Bằng những thao tác rất lanh lẹ và chuyên nghiệp, chỉ thoáng một cái là anh ta đã sửa soạn xong một liều thuốc, chích liền cho nạn nhân rồi nói:
- Anh ấy tỉnh ngay thôi.
Quả đúng như vậy, anh ta vừa dứt lời thì nạn nhân mở mắt liền và cho biết anh tên là H. vừa lúc đó anh vệ binh đi theo đoàn tù tay cầm AK sẵn sàng "chơi' chúng tôi, nếu chúng tôi vô tình mà đi lạc khỏi đoàn chỉ cần lối 50 mét thôi vì với khoảng cách như vậy họ cho là chúng tôi có ý định trốn trại, cũng vừa ở phía dưới đèo chạy đến chổ chúng tôi đang đứng, nhanh nhẩu nói:
- Thôi, ta vào đây nghỉ cái đã.
Anh ta vừa dứt lời, không ai bảo ai, cả ba chúng tôi liền theo anh vệ binh đi ngược xuống phía dốc đèo. Được một quãng khá xa, rẽ vào một căn nhà lá bao quanh là một hàng rào đơn sơ làm bằng nan tre, sát bên lề đường.
Giữa cảnh núi rừng, một căn nhà trong tầm mắt, khiến khách bàng quang cảm thấy ấm lòng, nhất là lại về mùa Đông. Khi chúng tôi vừa bước qua cổng, thì một người đàn bà từ phía sau nhà chạy vụt ra bụi mía ngang hông nhà, tiếp theo đó là tiếng chặt mía "bụp, bụp" vang lên trong cảnh tịch mịch, vắng vẻ.
Một lát sau, bà ta trở vào nhà, từ cái cửa phía sau căn nhà, trên tay là rổ mía đã được chặt thành từng lóng, xếp ngay ngắn, tiến tới chỗ chúng tôi ngồi trên tấm ván ngựa bằng gỗ. Đặt rổ mía bên cạnh, bà mời chúng tôi, giọng nói dịu dàng như nói chuyện với người thân kèm theo nụ cười tươi nở trên môi:
- Mời hai anh dùng mía.
Nghe giọng nói, cách mời cùng những lóng mía được xếp ngay ngắn, tôi hiểu và đoán ra bà không phải là người địa phương mà là từ miền xuôi lên mạn ngược sinh sống.
Cùng nhau nhìn những lóng mía tươi mát xếp đều đặn trong rổ và sự thèm khát chất ngọt của cơ thể sau những năm tháng lao động vất vả mà không có đủ chất bổ bồi dưỡng, tôi và anh H. im lặng, quay lại nhìn nhau, rồi nhìn rổ mía, không nói gì.


Lệnh cấm tù không được tiếp xúc, nói chuyện với dân vẫn còn đó. Hai người cán binh vẫn còn ngồi kia. Họ với chúng tôi tuy cùng màu da, cùng máu đỏ, cùng con Hồng, cháu Lạc, nhưng tư tưởng họ mang trong đầu đã khiến họ trở thành những "ngoại nhân" ngay chính trên quê hương mà họ đang sống và họ đã thực sự trở thành những kẻ "xâm lược" ngay chính trên tổ quốc thân yêu mà ông cha để lại.
Lúc đó, cả hai chúng tôi đều im lặng, nhưng đều ngầm hiểu là đừng để vì mấy lóng mía mà bị coi thường. Anh em "cải tạo" chúng tôi chắc chắn là ø"rách" hơn trong câu “Giấy rách phải giữ lấy lề.” Vì thế, tuy cả hai không nói nhưng cũng đều đồng ý để cho chút còn" rách" của mình khỏi bị tả tơi thêm nữa.
Tiếng nói chuyện râm ran, tiếng lọc xọc của chiếc điếu bát không ngớt vang lên, khói thuốc lào được liên tục nhả ra, quyện vào khí lạnh mùa đông như luyến tiếc cảnh ấm cúng trong căn nhà cứ lởn vởn quấn lấy nhau dịu dàng, xoắn xít.
Thấy chúng tôi ngồi im như hai pho tượng, ông chủ nhà mới chợt nhận ra, bèn đích thân lần lượt cầm từng chén trà một, mời chúng tôi, giọng lịch sự, ấm áp rõ ra ông ta là người từng trải:
- Mời hai anh dùng trà.
Ngụm nước trà tươi, cóø vị ngọt khi nuốt qua khỏi cổ, khiến người uống cảm thấy khoan khoái. Như biết ý, ông chủ nhà tiếp tục châm trà vào chén của chúng tôi khi thấy chén đã cạn và như để làm tăng hương vị của nước trà nên ông ta chêm vào:
- Trời lạnh mà uống trà nóng như thế này là thú vị đấy!
Sau ba tuần trà mà thấy chúng tôi vẫn không đụng tới rổ mía, bà chủ nhà vừøa nói, vừa nhìn anh vệ binh như để nhắc khéo:
- Hai anh dùng mía đi, anh vệ binh đồng ý rồi mà.
Khi nói câu này, hẳn là bà cũng đã rành rẽ về cái lệnh cấm tù tiếp xúc với dân và cấm dân tiếp xúc với tù. Nghe bà chủ nhà nhắc khéo, có lẽ chẳng đặng đừng vì là chỗ quen biết nên anh vệ binh vội vàng tiếp lời:

- Bà chủ nhà đã có lời mời, hai anh cứ tự nhiên, đừng e ngại gì, cứ dùng mía đi.
Được lời như "cởi hai tay" chúng tôi thong thả ăn mía, ăn vào tới đâu thấy ngọt tới đó mà là vừa ngọt lịm trong miệng và" ngọt lịm" cả trong tâm hồn.
Thấy chúng tôi đã dùng hết chỗ mía, anh vệ binh ngưng nói chuyện với ông chủ nhà, rồi quay qua chúng tôi giọng vui vẻ:
- Hai anh khỏe chưa, thôi chúng ta lên đường.
Vừa nghe thấy thế, bà chủ nhà thoắt một cái, lại dzọt ra ngoài vườn từ phía cửa sau của căn nhàøvà tôi lại nghe tiếng chặt mía "bụp, bụp" vang lên. Khi chúng tôi ra đến cổng thì bà ta cũng bắt kịp và vừa ấn vào tay chúng tôi những lóng mía mà bà mới chặt vừa nhìn anh y tá lẫn anh vệ binh, vừa nói bằng lời vừa nói bằng mắt:
- Hai anh cứ cầm lấy, hai anh ấy đồng ý rồi đó.
Vừa dứt lời, bà ta liền quay người trở lại để vào nhà, không để chúng tôi có thời gian kịp nói lời cám ơn. Cùng lúc đó tiếng anh vệ binh lại vang lên:
- Thôi chúng ta đi kẻo muộn.
Khi ra tới đường cái, tôi còn ngoái cổ lại nhìn về phía căn nhà thì vẫn còn thấy bà chủ nhà nhân hậu đang đứng tần ngần nhìn về hướng chúng tôi chứ chưa đi hẳn vào trong nhà.
Đi được một quãng, tới chỗ có mấy tảng đá to nằm bên lề đường có thể ngồi tạm được, đột nhiên cả hai người, anh y tá lẫn anh vệ binh ngừng lại và anh vệ binh nói với chúng tôi, giọng nói ôn tồn có pha chút lo ngại:

- Hai anh ngồi đây, ăn hết mía đi. Khi về trại nhớ đừng cho ai biết nhé, nếu Trại mà biết được thì chết chúng tôi.
Nghe anh vệ binh dặn dò, tôi chợt thấy hiện ra trước mắt tôi bây giờ không phải là một anh cai tù vác AK nữa mà cũng chỉ là một thứ nạn nhân trong guồng máy kềm kẹp. Họ có thể cũng là con người với đầy đủ ý nghĩa của chữ người thật sự, có tình thương yêu chân thật, nhưng vì phải sống trong một chế độ kìm kẹp, nên đã không thể làm gì hơn là tự thu nhỏ mình lại, thu nhỏ cả đến tình thương yêu đồng loại là thứ tình cảm cao quý nhất của con người, để mà tồn tại. Đến khi thấy bà chủ nhà thể hiện tấm lòng nhân hậu cả hai mới chợt bừng tỉnh và đã tìm thấy "cái tôi" thực sự, sau bao năm bị nhận chìm trong cách sống mà chế độ Cộng Sản đã cố tình tạo nên khiến cho người dân cứ phải suy nghĩ, hành động theo chỉ thị của Đảng để Đảng duy trì quyền lực bằng sự thông tin một chiều.
*
Ngày xưa, lúc còn nhỏ, khi đọc truyện "Tấm Cám" hay truyện "Cô bé Lọ Lem" thì ai trong chúng ta mà chẳng reo vui khi thấy nhân vật chính trong truyện trong lúc lâm vào cảnh cùng khổ nhất thì có một bà tiên xuất hiện ra tay cứu vớt.
Trong quãng đời lưu đầy cải tạo của chúng tôi, tuy không còn bà chuyện thần thoại, nhưng vẫn còn tấm lòng của "bà tiên" thể hiện nơi bà chủ nhà tốt bụng. Dù phải sống lam lũ nơi thâm sơn cùng cốc, vất vả với cuộc sống hàng ngày, nhưng vớiõ tấm lòng nhân hậu, bà đa õ"chia ngọt, xẻ bùi" với những người cùng khổ nhất bằng một chút "của ít, lòng nhiều".
Cho đến tận bây giờ, dù đang sống đầy đủ trên đất nước Hoa Kỳ, mỗi khi dùng một món gì ngọt thì kỷ niệm bữa ăn mía trong cảnh khốn cùng của người tù "không án" cùng với hình ảnh bà chủ nhà tốt bụng năm xưa lại hiện ra.
Bà thực sự đã là một bà tiên" trong cuộc nhiễu nhương của đất nước Việt Nam sau năm 75. Tôi thường kể lại cho các con tôi nghe câu chuyện "ăn mía" mỗi khi có dịp. “Bà tiên mía” mà chúng tôi đã gặp trên miền Bắc tù đầy là một "hình ảnh vô giá" cho thấy là dù kềm kẹp, bạo lực, dối trá của chế độ Cộng sản đã phủ khắp miền Bắc cả nửa thế kỷ, chúng vẫn không thể tiêu huỷ được tấm lòng tử tế trong con người. Và tấm lòng ấy vẫn ở với những người chiến sĩ cộng hoà dù lúc họ cùng đường, tù tội.

Sao Nam Trần ngọc Bình

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,883,949
Vận nước nổi trôi, tôi đến Hoa kỳ vào tháng chín năm 1975.   Ngồi trên xe từ phi trường về nhà trọ, tôi thấy ngay cái không khí ở đây khác với không khí tại những nơi tôi đã đi qua.   Nó có phần tươi mát hơn, khoáng đạt hơn.   Không phải là một người trong ngành y khoa, tôi không biết cái gì đã kích thích ngũ quan
Tôi chầm chậm đậu xe vào cái chỗ quen thuộc của tôi mỗi sáng chủ nhật, đó là một mảng lề thoai thoải giữa chừng con dốc, được thêu vá bởi màu sắc hoa Vàng Anh và cỏ dại. Bên kia là một cái park rộng thênh thang với những nhánh thông xanh nếu nhìn một lần sẽ không rõ là thiên nhiên hay là tranh vẽ,
Anh đã từng ghé lại Câu Lạc Bộ, Anh nói chuyện với anh em với tất cả hào khí của người lính! Anh khẳng định: Sống là chiến đấu, là chấp nhận thử thách! Đôi khi đời không yêu ta, ta cũng phải há mồm cắn vào nó, ghì chặt nó, như xích của tank cạp lấy mặt đường, bùn lầy
Sau khi tham dự thánh lễ Phục Sinh về, đang ngồi viết lại những kỷ niệm buồn vui của đoạn đường di tản từ bãi biển Non Nước đến Cam Ranh rồi Vũng Tàu và chấm dứt đời lính tại căn cứ Sóng Thần vào sáng 30-4-75 thì con gái tôi gọi chỉ cho coi ca sĩ Chế Linh trong bộ quân phục
Anne Khánh-Vân, 33 tuổi, hiện đang sống tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Sau khi tốt nghiệp Kinh Tế Kế Toán và sống một thời gian ở Pháp, cô sang Mỹ và hiện đang vừa làm việc và vừa học thêm về Management Information System.   Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của cô là “Làm Lành Vết Thương Xưa”, kể chuyện gặp gỡ
Tôi cởi tung quân phục, xếp gọn gàng lại, đặt trên đầu giường. Tôi nhìn đôi lon trung úy lần cuối. Nhìn chiến hạm lần cuối. Nhìn những bậc thang lên đài chỉ huy, như đưa tôi lên đài danh vọng thuở nào. Nhìn những bậc thang dẫn xuống hầm tàu, dẫn xuống lòng nước - như chôn vùi tuổi tên, chôn vùi cả một cuộc đời
Đào Như là bút hiệu của   Bác sĩ Đào Trọng Thể, tác giả đã được trao tặng giải Viết Về Nước Mỹ 2005,   "Tác Phẩm Xuất Sắc Nhất", với các bài “Tự Khúc”, “Dấu Chân Người Lính.” Trước 1975, ông là một y sĩ tiền tuyến chuyên về phẫu thuật. Định cư tại cư dân Oak Park, IL (vùng Chicago) Hoa Kỳ, ông là chuyên gia
Sau khi tham dự thánh lễ Phục Sinh về, đang ngồi viết lại những kỷ niệm buồn vui của đoạn đường di tản từ bãi biển Non Nước đến Cam Ranh rồi Vũng Tàu và chấm dứt đời lính tại căn cứ Sóng Thần vào sáng 30-4-75 thì con gái tôi gọi chỉ cho coi ca sĩ Chế Linh trong bộ quân phục
Anne Khánh-Vân, 33 tuổi, hiện đang sống tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Sau khi tốt nghiệp Kinh Tế Kế Toán và sống một thời gian ở Pháp, cô sang Mỹ và hiện đang vừa làm việc và vừa học thêm về Management Information System.   Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của cô là “Làm Lành Vết Thương
Tác giả định cư tại Hoa Kỳ từ 1987, hiện là một bác sĩ đang hành nghề tại quận Cam . Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là "Hạnh phúc rất đơn giản" kể chuyện về cách nhìn, cách nhận chân hạnh phúc của người phụ nữ Việt tại Hoa Kỳ qua ba hoàn cảnh sống khác nhau. Sau đây là bài viết thứ năm của bà.
Nhạc sĩ Cung Tiến