Hôm nay,  

Sống Sót Nhờ Mang Thai

16/07/200500:00:00(Xem: 154746)
Người viết: HỒ PHI
Bài số 785-1364-210-vb6071505

Tác giả Hồ Phi, một cư dân cao niên tại Fountain Valley, Nam California, đã góp nhiều bài viết đặc biệt. Bài mới của ông lần này là chuyện kể về thảm trạng thuyền nhân và hải tặc Thái Lan.
*

Đây là chuyện thật do nạn nhân hiện ở Orange County, California kể lại:
Tháng 4/1975 khi Cộng Sản chiếm miền Nam, Hoa được 12 tuổi, chưa học xong tiểu học. Còn là trẻ thơ, chưa biết gì về thời cuộc, xã hội chung quanh, nhưng Hoa đã phải bỏ học ngay để giúp cha mẹ trong việc ruộng đồng, nuôi heo gà, vì có học thêm cũng không có tương lai gì.
Cha mẹ Hoa người Bắc, đạo Công Giáo, di cư vào Nam sau hiệp định Genève 1954 và đến lập nghiệp tại Cái Sắn, Kinh B gần Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang, trên khoảng nửa đường từ bến đò Vàm Cống đến thị xã Rạch Giá. Thuộc xóm nhà dọc theo ven lề tỉnh lộ nầy chạy song song với con kênh nối từ sông Hậu Giang với bờ biển Rạch Giá.
Đến năm hai mươi tuổi, Hoa lấy chồng. Chồng Hoa tên Hiệp, lớn hơn nàng 4 tuổi, cũng thuộc gia đình Công giáo Bắc di cư ở cùng xóm.
Hiệp là một thanh niên khỏe mạnh, thông minh, chịu khó làm việc, và có nhiều suy tư. Lớn lên dưới sự cai trị của CS, anh càng thấy, càng hiểu chế độ nầy có quá nhiều dối trá, áp bức, bất công, bóc lột, đói khổ. Họ dùng tờ hộ khẩu kiểm soát gắt gao cả đến cái bụng đói no và sự suy nghĩ của mọi người. Không thể sống nổi, anh quyết tìm đường để rời bỏ quê hương tìm tự do.
Cả thôn nầy toàn là giáo dân di cư, nên ít ai muốn làm cán bộ, hay a dua theo chúng. Nhưng dù sao, chúng cũng phải tổ chức chính quyền và dùng người địa phương để cai trị, nên chúng đã chỉ định cha Hiệp làm ấp trưởng.
Vì đã già và có nhiều kinh nghiệm khủng khiếp với CS trước kia ở Miền Bắc, nên ông đã khiếp sợ và đầu hàng chúng. Để yên thân, ông phải miển cưởng nhận sự chỉ định của chúng và tuân hành các chỉ thị.
Nhưng Hiệp lại khác, anh không thể an phận chịu sống tăm tối dưới chế độ đễu cáng, gian ác nầy như những người cao tuổi đã thúc thủ. Anh phải tìm mọi cách ra đi.
Nhà nghèo anh không có vàng đóng cho các tổ chức vượt biển, vả lại những người vượt biên thường bị lường gạt, mất vàng, mất nhà đi tới, đi lui bao lần, không thoát ra được đến biển, hay bị những kẻ tổ chức cẫu thả cốt để lấy vàng, để rồi đưa người ra biển trên những chiếc thuyền thiếu an toàn và thực phẩm, sống chết không cần biết. Nên sẵn ở gần con sông kênh nối ra biển, anh nghĩ chính mình phải làm quen với sông nước, biển cả, ghe thuyền, tự mình tự tổ chức, tự làm lấy mà đi.
Với sự góp sức của một số anh em bà con cùng thôn, anh sắm một con thuyền nhỏ. Anh trộm mượn con dấu của thôn do ông già anh đang giữ, làm giả giấy tờ giới thiệu cần thiết để xin Ty Công An cho phép đi đánh dã tôm ven bờ biển Rạch Giá.
Sau thời gian kiên trì kéo dã vài năm, anh đã có nhiều kinh nghiệm về việc sử dụng máy móc, điều khiển ghe thuyền, và làm quen với đám công an biên phòng tại cửa biển nơi mà hằng ngày anh đều trình giấy ra vào.
Sau nhiều năm tháng chuẩn bị chu đáo, ngày 2 tháng 7 năm 1985, vừa hết giờ giới nghiêm, Hiệp dấu hai người em trai, cô em gái 20 tuổi, Hoa và em gái Hoa lúc đó 19 tuổi, cùng với 23 người đàn ông khác toàn là bà con và bạn thân trong xóm từ Cái Sắn, với cả cha con ông chủ nhà ở gần bến Rạch Giá, nơi anh ở trọ, và đậu ghe trong những tháng ngày mà anh làm nghề biển. Tất cả là ba chục người trong 2 khoang, trên chiếc ghe dài hơn 12m và ngang hơn 2m.
Lúc trời chưa sáng tỏ là giờ nhiều thuyền nhỏ thường lệ bắt đầu ồn ào ra khơi sau khi trình giấy ở trạm nổi CA. biên phòng. Mọi người trên ghe đều nằm im dưới đáy khoang, lấy lưới che phủ lên trên. Nhờ Hiệp quá quen mặt với CA và vốn là người chăm chỉ làm ăn, thường cứ cuối ngày lúc quay về bến, anh cũng đếu cho chúng ít nhiều tôm cá, nên được chúng tin cậy. Thấy Hiệp nắm tay lái, không nghi ngờ gì, chúng cho ghe Hiệp thong thả xuất bến mà không cần xét hỏi lôi thôi. Thuyền ra khỏi bến một khoảng xa, cả đám mới ngồi lên hít thở hơi gió biển trong lành, thở phào nhẹ nhỏm mừng bước khởi đầu đã ra đi được êm thấm, và hy vọng thoát khỏi chế độ cai trị hà khắc và ác nghiệt nầy.
Nhìn theo la bàn, cứ hướng tây nam thuyền thẳng tiến, trong lòng mọi người tràn đầy hy vọng, hân hoan, và hồi hộp. Thuyền cứ thế mà đi suốt một ngày một đêm, biển vắng không thấy một chiếc thuyền xa xa nào, biển sóng nhẹ êm. Tuy lúc đó Hoa đang có mang đứa con đầu lòng, bảy tháng, bụng đã to, nhưng nhờ hơi gió biển, nàng không thấy mệt nhọc nhiều.
Đến chiều ngày hôm sau, bỗng đâu ba chiếc thuyền từ phía tây bắc xuất hiện, và không bao lâu sau, ba chiếc tàu cá Tháiland, mũi cao, to lớn, sơn màu xanh đỏ, lòe loẹt, xáp lại bao vây chiếc thuyền nầy.
Hiệp kéo hết dây gase, tăng hết tốc lực, cố chạy thoát nhưng không thoát khỏi. Trên mỗi thuyền Thái, lố nhố năm sáu người, mặt mày đen đủi, dữ tợn, cười nói xi xô nham nhở, tay chúng cầm mã tấu. Xáp thuyền lại, mạn thuyền đụng nhau lịch kịch, chúng đua nhau nhảy qua thuyền Hiệp, làm chiếc thuyền tròng trành như muốn lật. Chúng ra lệnh mọi người phải cúi mặt. Chúng bắt từng người cởi đồ cho chúng lục xét vàng bạc. Chúng lôi chị em Hoa và cô em chồng bỏ qua thuyền chúng. Mặc cho ba người phụ nữ nầy run sợ van xin, chống cự, và la khóc, nhưng chúng quá mạnh cả ba cô không thể nào cưỡng lại. Xong chúng soát khắp trên thuyền, lấy hết mọi đồ đạc. Ai chậm trể, run rẩy không kịp nghe lệnh chúng, bị chúng đánh tàn bạo, ngất xỉu, không kể trọng thương đến chết. Tiếng la thét vang trời, giữa biển khơi mênh mông. Vì bất thình lình, và không ai mang theo vũ khí để tự vệ, cả đám đàn ông hơn vài chục người không ai có phản ứng, hay cử chỉ chống cự. Tất cả đều tái mặt sợ sệt, run rẩy, chấp tay van xin chúng.
Sau khi lấy hết mọi thứ chúng có thể lấy được, chúng cho thuyền chạy ra xa. Tưởng như chúng bỏ đi, nhưng chúng liền cho thuyền phóng nhanh trở lại, với trớn mạnh chúng đâm mũi vào hông chiếc thuyền nhỏ của Hiệp, lúc đó đang tròng trành bất động. Chiếc thuyền đứt làm đôi, hất mọi người xuống biển. Trong chưa đến nửa phút, chiếc thuyền đã biến mất khỏi mặt biển. Có người chìm ngay theo cùng với chiếc thuyền, có dăm người bơi nhấp nhô trên sóng, có người bám vào những miếng ván vỡ vụn hay thùng nhựa nổi lình bình. Có một số cố bơi gần để bám vào thuyền cướp Thái, thì bị chúng lấy cây đập vào đầu hay lấy mã tấu chém, đẫy nạn nhân ra xa cho chết chìm. Không những thế chúng còn lấy thuyền chạy bừa lên những chiếc đầu đang bơi trong tuyệt vọng, bị chân vịt chém vào người máu hồng tung tóe nỗi lên trong đuôi bọt nước sau thuyền chúng.


Hoa thấy Hiệp cố bơi một cách yếu đuối tuyệt vong về phía mình, vì phản ứng tự nhiên, nàng toan nhảy xuống biển theo với Hiệp để thoát tay bọn hải tặc Thái, nhưng nàng đã bị bọn chúng giữ lại, dù cho đã cố sức dẫy dụa.
Thấy thế, chúng xách bổng hai nách nàng lên, đem giam nàng vào một khoang thuyền sâu, ẩm ứơt, tanh mùi cá, và đậy nắp lại. Nắp hầm cao nàng không có cách gì thoát ra được. Hoa ngồi khóc nức nở trong đó.
Nghe tiếng máy thuyền nổ đều đều, biết là thuyền chúng chạy rất lâu và nàng cũng không còn phân biệt ngày đêm vì trong khoang lúc nào cũng tối om. Hoa đau khổ, than khóc, thương chồng và những người đồng thuyền mà giờ nầy Hoa nghĩ họ đã chìm chết cả, vì giữa biển khơi làm sao bơi đi đâu nỗi. Và từ đó Hoa cũng không biết chuyện gì đã xảy ra với hai cô em. Sau đó quá mệt, nằm thiếp đi, Hoa không rõ là thời gian bao lâu.
Đến khi chúng xách Hoa ra khỏi khoang, gió biển thổi mát vào mặt, nàng mới tỉnh lại. Nhìn lên trời đầy sao, nàng mới biết là đang đêm. Chúng đưa nàng ra phía sau, cho nàng một ly nước. Nhìn vào phòng lái thấy chúng có thờ Phật, đốt nhang và giữ nàng chờ ở đó. Thuyền chạy đến chỗ có một cái phao tròn lớn, neo trên biển, trên có ngọn đèn nhỏ. Có lẽ đây là cái phao lớn làm dấu chỗ mà người ta thả lưới hay thả nò dưới đáy biển. Chúng thả nàng xuống đấy, rồi cho thuyền chạy biến đi nơi khác.
Nàng phải ôm bám vào cái phao nầy để khỏi bị chìm, lòng đau khổ vô hạn. Nhờ nước biển không lạnh lắm, nàng ôm phao chịu đựng, nửa tỉnh, nửa mê mệt. Nơi đây có lẽ cũng không xa bờ là mấy vì nàng nhìn thấy một vùng ánh sáng như bụi sữa ở một phía trời.
Mặt trời vừa lên, có một ông già Thái, lái thuyền nhỏ đi ngang trông thấy, vớt nàng lên, cho nàng chút đồ ăn, nhưng nàng không thể nào nuốt được. Ông già chở nàng đến một cái chòi lá kè dựng trên biển, có lẽ nơi nầy cũng không xa bờ. Ông ra dấu chỉ cho nàng bò sâu vào khuất bên trong chòi, rồi ông lại bỏ đi.
Ở đây nàng cũng rất lo lắng, không biết ý định ông già như thế nào, sẽ trở lại cứu nàng, hay sẽ mưu tính hại nàng, chuyện gì sẽ xảy ra tiếp, và nghĩ cũng không thể nào sống sót ở đây lâu được. Nàng ra phía trước chòi, trông chờ thuyền nào đi gần, để vẫy tay ra hiệu nhờ cứu giúp.
Đến gần tối, thấy một chiếc thuyền nhỏ điều khiển bởi mấy ông sư áo vàng chạy ngang gần đó, cũng không biết mấy ông sư nầy đi ra biển làm chi, nàng la lên và vẫy tay, được thuyền nhỏ nầy ghé vào, và sau đó chở nàng vào gần bờ, đến chỗ bãi ngang nước cạn thả nàng xuống, và chỉ hướng cho nàng lội vào, xong cho thuyền chạy đi nơi khác.
Tuy là gần bờ, nhưng nàng phải vất vả hụp lặn, lội hằng giờ, sóng đánh, xô nàng lảo đảo, lăn lóc mới vào đến bãi cát. Bò lên khỏi mé nước, quá mệt, nàng ngã nằm thở dốc, và mê đi không còn biết gì nữa. Đến khi xe cảnh sát Thái đến, nghe âm vang lao xao, nàng mới tỉnh ra. Họ nói gì nàng không hiểu và cũng không biết trả lời như thế nào.
Họ dìu nàng lên xe và chạy một hồi lâu, đưa nàng vào giam với mấy cô gái Thái. Nàng được mấy cô nầy thương hại, kiếm nước cho uống và nàng dần khỏe lại. Ở đó được hơn tuần lễ, Cảnh sát Thái lại chở nàng đến một nhà tù lớn hơn về phía bắc. Nơi đây có vài ba chị Việtnam cũng đang bị giam ở đó.
Suốt ngày nàng quá buồn khổ, phần khóc thương chồng, nhớ cha mẹ và thương hai cô em không biết chúng sống chết, bị hành hạ, giết chết hay đưa đi đâu. Mất chồng vì biết giờ nầy anh ấy đã vùi thân dưới lòng biển, nàng đau khổ không còn muốn sống nữa.
Mấy chị Việtnam thấy nàng đang có mang, nên khuyên nàng gắng gượng mà sống để đứa nhỏ trong bụng được sống còn. Họ kiếm đồ ăn, dỗ dành cho nàng ăn, và pha sữa lon cho nàng uống. Nhờ có mấy chị nầy, nàng cũng nguôi ngoai dần và bớt đau buồn một phần nào.
Ở đây vào khoảng ba tuần lễ thì có phái đoàn Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, đến nhà tù, có thông dịch viên VN, gọi nàng lên phỏng vấn, và năm hôm sau nàng được đưa vào trại tỵ nạn ở Songkla.
Tại trại tị nạn, sống chung với những người đàn bà Việtnam cùng cảnh ngộ tỵ nạn Cộng Sản, nàng lại nghe thêm nhiều chuyện tang thương chết chóc kinh hoàng không kém chuyện con thuyền oan nghiệt của vợ chồng nàng.
Thấy trường hợp nàng mang thai mà phải trải qua hoàn cảnh khủng khiếp và sống sót như vậy, nên đến ngày nàng sắp sinh, sợ sinh khó, Cao Ủy dàn xếp đưa nàng lên bệnh viện Bangkok. Tại đây nàng may mắn sinh được một cháu trai bình thường, rồi mẹ con trở lại trại tỵ nạn.
Chờ đợi ở đây hơn 6 tháng, nàng đã được phái đoàn Mỹ phỏng vấn và nhận cho mẹ con nàng sang định cư ở Nam Cali.
Trong vài năm đầu, như một kẻ thất thần, chẳng làm gì được cả, nhưng nhờ có trợ cấp xã hội của chính phủ và được trợ cấp y tế chửa trị đúng mức, tâm trí nàng dần bình phục. Sau nhiều năm nàng nguôi ngoai và lấy lại bình tĩnh. Nàng dần bắt đầu học tiếng Anh, học lái xe và xin học bỗng học nghề làm tóc và móng tay. Từ đó nàng lấy được bằng hành nghề thẩm mỹ (cosmetology) và làm nghề nầy ở Huntington Beach đến nay đã mười lăm năm.
Thời gian thấm thoát, cậu con trai nàng đã trưởng thành và đang học trường College ở Costa Mesa, California. Nàng có thư từ liên lạc với gia đình hai bên ở Cái Sắn, và đã có về thăm quê một lần. Mọi người ở quê đều biết chắc chắn là tất cả những người đàn ông ra đi ngày ấy đã vùi thân biển cả; hai cô em biệt tích, không biết sống chết, đang bị đọa đày đâu đó, hay đã bị hảm hiếp và ném xuống biển từ lâu. Chỉ riêng mẹ con nàng là người sống sót duy nhất trên chiếc thuyền định mệnh hai mươi năm xưa.
Nàng đã trở thành vị cứu tinh của cha mẹ đôi bên ở Cái Sắn nay đã già nua yếu đuối và mắt đã mờ, sờ soạng vì nhiều khóc thương con cái đã vùi thân biển cả. Rất may là tinh thần nàng vẫn được vững vàng. Nàng tận tụy làm việc và dành dụm, để trợ giúp con vào đại học và hằng tháng gởi tiền về nuôi cha mẹ đôi bên trong buổi hoàng hôn của cuộc đời họ đầy tang thưong và bi lụy.
Nàng không thể hiểu sao người đồng loại, không oán thù, mà những người chài lưới Thái nầy đã giết chóc quá tàn ác, không cần thiết, không khác gì những quân tranh quyền cướp nước, không tiếc máu xương, sinh mạng, và nỗi thông khổ bao la của đồng bào.

HOPHI

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 866,482,668
Tác giả tên thật Tô vĩnh Phúc, từng viết một số văn thơ dưới nhiều bút hiệu khác nhau, nhưng bút hiệu sau cùng là Giang Thiên Tường. Thơ văn đã đăng ở tuần báo Phụ Nữ Cali và Làng magazine ở bắc Cali và các trang web. Tác phẩm mới nhất được xuất bản là thi tập "Bên Bến Sông Buồn"(2011). Trong những năm 1990, xuất bản và phát hình tuần báo Phù Sa ở Bắc Cali. Hiện là cư dân ở Sacramento, California. Mùa Mothers Day 2011, ông có bài “Chuông Gọi Mẹ Thương.” Sau đây là bài mới cho Mothers Day năm nay của ông. 
Tác giả sinh năm 1957, cư dân Santa Ana, nghề nghiệp: làm nail. Loạt bài viết về nước Mỹ gần đây của tác giả với tên thật Nguyễn Thị Hữu Duyên gồm: Bỏ Gì Thì Bỏ; Ước Vọng Của Tin, thể hiện tình thương yêu và ý chí của một gia đình Việt Nam trên đất Mỹ. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả tên thật là Yến Phi, 63 tuổi, hiện là cư dân WA. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà cũng là bài viết đầu tay nhân mùa Mothers Day, sau nhiều “vật lộn” khó khăn với chữ Việt trên computer, được tác giả trân trọng gọi là “Tác Phẩm Đầu Tay Dâng Mẹ.” Tựa đề được đặt lại theo nội dung bài viết. Mong tác giả tiếp tục.
Từ giữa năm 2010, tác giả tự sơ lược tiểu sử khi tham dự Viết Về Nước Mỹ: Trước 75, còn đi học, chỉ viết cho các báo thiếu nhi, học trò. Qua Mỹ từ 1990. Hiện ngụ tại Myrtle Beach, SC. Bài mới của Hải Âu cho giải thưởng năm thứ mười hai là một chuyện tình chia lìa vào Tháng Tư 1975.
Kông Li là bút hiệu vui vẻ của Phạm Công Lý, tác giả đã có nhiều bài viết về nước Mỹ giá trị, vừa nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 20011. Là một cựu sĩ quan VNCH, cựu tù, ông cùng gia đình đến Mỹ từ tháng 11/1994 theo diện HO, định cư tại Boston.
Tác giả đã góp cho Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12 nhiều bài viết đặc biệt. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biên đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA. Bài viết mới của tác giả cho mùa Mothers Day là một tự sự cảm động về Mẹ.
Tác giả tên thật là Nguyễn Tân, tuổi 60', cựu sĩ quan hải quân, cư dân Glendale, CA. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, từng nhận các giải bán kêt 2001 và giải Việt Bút 2008, hiện là thành viên "Ban Tuyển Chọn Chung Kết" Giải Thưởng Việt Báo. Bài mới “góp vui” của ông là một truyện hiếm có mở đầu cho mùa Mothers Day đang tới.
Tác giả là một nhà giáo, từng là Chủ tịch Hội Ái Hữu Ninh Thuận, hiện đã về hưu và là cư dân Riverside, Nam Cali. Ông đã góp nhiều bài viết đặc biệt cho giải thưởng Việt Báo từ năm đầu tiên, và nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2009. Tháng 2, ngày 3, 2012, Phạm Hoàng Chương có bài “Người Lấy Ba Vợ”, kể về người bạn thân từ thời học trò đi H.O. qua Mỹ, về Việt Nam sông với bà vợ mới đang gặp cảnh khó khăn, lương hưu bị ăn chặn. Bài từ tháng Ba, hiện đã có tới 19,151 lượt người đọc. Biết tác giả sau đó đã giúp bạn trở lại Mỹ để giải quyết vụ lương hưu, nhiều thân hữu hỏi kết quả ra sao. Sau đây là đầy đủ câu chuyện: ông bạn chỉ có ba mà là bốn bà vợ. 
Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của tác giả dành cho giải thưởng năm thứ 12 là “Chuông Gọi Mẹ Thương” đã phổ giến vào dịp Mother's Day 2011, Chủ Nhật 8-5-2011. Mới đây, ông có thêm 2 bài viết mới, trước hết là một chuyện kể về con tầu vượt biển đúng vào một đêm 30 Tháng Tư. Bài còn lại sẽ phổ biến sau.
Thời hạn dành cho bài Viết Về Nước Mỹ hàng năm kết thúc ngày 30 tháng Tư, nhưng như mọi năm, số lượng bài đã góp trước ngày này vẫn chưa thể phổ biến hết. Do đó, từ hôm nay, Việt Báo tiếp tục phổ biến thêm những bài dành cho năm 2012.
Nhạc sĩ Cung Tiến