Hôm nay,  

Tôi Học Văn Chương Mỹ

04/08/200500:00:00(Xem: 106197)
Người viết: THÙY DƯƠNG
Bài số 798-1386-223-vb5080405

Tác giả định cư tại Hoa Kỳ từ 1987, hiện là một bác sĩ đang hành nghề tại quận Cam. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ba là “Hạnh phúc rất đơn giản” kể chuyện về cách nhìn, cách nhận chân hạnh phúc của người phụ nữ Việt tại Hoa Kỳ qua ba hoàn cảnh sống khác nhau. Sau đó, bà kể chuyện 5 chị em trong bài “Đoàn Nữ Binh Mùa Thu”, và sau đây là bài tiếp theo.

Trong số năm chị em gái của tôi, chị Ba là người có khiếu văn chương nhất. Không những chị viết văn, làm thơ hay, vẽ giỏi, mà chị còn chịu khó viết lại những bài thơ chị yêu thích vào trong một quyển sổ bià đen dày cộm hàng mấy trăm trang. Chị góp nhặt thơ cũng giống như nhà sư góp nhặt sỏi đá vậy. Đủ loại, từ những bài thơ đơn giản, mộc mạc dễ thương của Nguyễn Bính với “Em Hiền áo trắng nhìn không ra”, những bài thơ uỷ mị của T.T.K.H, cho đến những bài thơ tượng trưng của Bích Khê, Hàn Mặc Tử. Từ những bài thơ lãng mạn của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư đến những bài thơ hiện thực về cuộc chiến có những câu như “Anh tặng em một cuộn dây thép gai. Thứ dây leo của thời đại mới”v.v… . Tôi có tật tò mò, dù trước 75 tôi chưa lớn lắm vậy mà những bài thơ này của chị tôi cũng đọc đi đọc lại say mê, đâu có ngờ rằng nhờ nó có ngày tôi được điểm A trong môn văn chương Mỹ.

Qua Mỹ, dù với tâm trạng “depressed” buồn rầu chán nản, với vài tiếng một ngày khóc trong phòng tắm, tôi cắp sách đi học lại, vả lại không học lại tôi cũng chẳng biết phải làm gì lúc bấy giờ, đi học còn được chút ít tiền học bỗng. Tôi thích khoa học, toán hơn văn chương, nhưng học ở bên Mỹ mà, ngoài các môn bắt buộc cho ngành bạn học, bạn phải lấy thêm các môn phụ, nhiệm ý mới có thể ra trường được. Ở VN, trong lúc đợi xuất cảnh sang Mỹ, tôi sửa soạn cho mình một số vốn liếng tiếng Anh khá kỹ. Các thầy dạy Anh văn nổi tiếng ở các trung tâm sinh ngữ ban đêm đều có lúc đã dạy tôi, như thầy Thiết từng sống bên Anh , thầy Bách từng du học bên Úc, đến những thầy dạy Anh văn ở nhà như thầy Sở đã có thời gian sống bên Mỹ. Với số vốn liếng tiếng Anh kha khá này, khi thi xếp lớp, tôi được cho học English, lớp Composition tức lớp viết luận văn, cùng với dân bản xứ chứ không phải học lớp ESL . Tôi chẳng biết tôi gặp may mắn hay rủi ro nữa. Vì không học lớp ESL nên tôi đâu có được luyện giọng, nói tiếng Mỹ với accent Việt Nam đặc sệt. Hơn nữa, tuổi tôi khá cách xa với các bạn cùng lớp nên tôi cứ cô lập mình, chả trò chuyện với ai dù trong lớp tôi có vài sinh viên VN nhưng các em qua đây từ 75 nên ngôn ngữ họ trò chuyện vẫn là tiếng Mỹ. Hai lớp Composition I, II tôi được điểm A ngon lành, chả là lối viết văn lớp này giống như lớp Văn cấp một, cấp hai cho con nít tại VN, nào là tả cảnh, tả người, so sánh, viết thư, cao nhất là bình luận câu nói của ông này, bà kia. Bà giáo dạy English thích đọc bài của tôi viết lắm chỉ vì nó khác với những bài của các em sanh ra ở Mỹ, tôi kể chuyện VN, kể chuyện tị nạn, kể những chuyện lạ lùng làm tôi sững sờ khi qua đây như chuyện tôi được hai cô bạn Mỹ Trắng rủ vào Sisters Club mà đâu biết rằng đó là hội của những người Lesbian, chuyện trái cây chất từng đống trước siêu thị chẳng ai trông coi mà không sợ bị ăn cắp, chuyện tôi lạnh run khi ngồi đón xe bus lúc tuyết rơi v.v…. Sau khoá học, bà thầy đề nghị tôi nên ghi danh học lớp Literature “mới xứng đáng với trình độ Anh văn của tôi” . Nở phổng cả mũi, điếc không sợ súng, tôi hân hoan ghi danh học lớp English Literature.

Trong đời ai chả có lúc nhầm lẫn, nhầm lẫn to lớn của tôi là việc ghi danh học lớp này. Được A ở hai lớp Composition quá dễ dàng, tôi tưởng rằng Anh văn của tôi chắc cũng thuộc loại siêu việt, nên nghe theo lời bà thầy. Nào ngờ (vẫn chữ ngờ đáng ghét này) lớp Literature này làm tôi tối tăm mặt mủi, ăn ngủ không yên. Trước đây, vì muốn mau chóng ra trường, có lúc tôi lấy cả 22-23 units mà vẫn thấy khỏe re, học kỳ này vì lấy lớp này mà tôi phải drop chỉ còn lấy 12 units , vừa đủ cho full time student. Nào là phải bình luận văn của John Steinbeck, Heminway, nào phải đọc Hamlet của Shakespear, hết phải tra tự điển để đọc cho hiểu bài, rồi phải tra tự điển để viết bài. Thời gian khóa học này sao lại kéo dài đằng đẳng. Nhưng rồi cũng đến bài làm cuối khoá, bà thầy cho đề tài tự do, muốn viết gì thì viết. Làm sao tôi dám chọn viết về Shakespear hay John Steinbeck cơ chứ, thôi đành một liều ba bảy cũng liều. Tự dưng một bài thơ trong quyển sổ bià đen của chị tôi lại hiện ra, thế là tôi viết đại cho bà ấy một bài. Đại khái, khoá học này cho tôi cách viết, cách suy nghĩ của người Anh, người Mỹ, trên những đất nước không bị chiến tranh tàn phá. Về phần mình, tôi muốn giới thiệu đến bà ấy cách viết, cách suy nghĩ của những người viết văn thơ trên xứ sở của tôi mà lịch sử của đất nước gắn liền với chiến tranh từ lúc lập quốc. Tuy thế, người viết văn thơ trên đất nước tôi cũng là một hoạ sĩ nữa, một hoạ sĩ giỏi nữa là đằng khác. Sau đó tôi dịch bài thơ ấy sang tiếng Mỹ, vì quên tên tác giả nên tôi đặt tên tác giả là vô danh.

Khi thơ ấu,
Người cha đến trao cho chàng chiếc mặt nạ hồng
Người thầy đến trao cho cho chàng chiếc mặt nạ xanh
Màu hồng, màu xanh dạy chàng tin yêu và hy vọng

Khi khôn lớn,
Chiến tranh đến trao cho chàng chiếc mặt nạ đen
Tương lai đến trao cho chàng chiếc mặt nạ trắng
Màu đen, màu trắng dạy chàng sự hồ nghi

….

Và bây giờ,
Khi màu hồng trộn lẫn với màu đen
Màu xanh trộn lẫn với màu trắng
Chàng mới hiểu tại sao
Chàng có màu da rám nắng
Nàng có màu da xanh xao

Chàng mới hiểu tại sao
Tận cùng của đêm là bóng đen che phủ cuộc đời chàng

Ngày phát bài, tôi phập phồng lo sợ, có ai đời học English Literature mà lại dịch một bài thơ của tác giả vô danh của VN , nếu không bị con F thì cũng bị điểm C,D là may mắn lắm . Ai ngờ (lần này là chữ ngờ đáng thương) bà thầy lôi bài của tôi ra đọc trước lớp. Bà đặt tay trước ngực và nói: It’s very touching. Chưa bao giờ trong đời bà đọc được bài thơ hay và cảm động như vậy. Dĩ nhiên, tôi được điểm A. Tôi nghe tiếng hai cô bé VN cùng lớp bảo nhau “Cái bà già này nói tiếng Anh không rành vậy mà viết văn hay quá”. Eo ơi, lúc đó tôi chưa qua tuổi ba mươi mà bị gọi là “That old lady” .
Không phải tự dưng hôm nay tôi lại nhớ đến lớp học Văn Chương này đâu. Cái tật của tôi khi lái xe là mở radio ra nghe, cả tháng nay tôi cứ phải nghe một cô ca sĩ cứ ra rả bài hát của một nhạc sĩ trong nước về màu sắc. Tôi nghĩ chắc ông nhạc sĩ nổi tiếng quốc nội này cũng có đọc được bài thơ trên, mà bắt chước dở ẹc.
Chị em với nhau, không giống lông cũng giống cánh, khi tôi nói chuyện với chị Ba về cảm nghĩ của tôi về sự liên hệ giữa bài thơ và bài hát này, chị nói: “Thì chị cũng nghĩ vậy ngay khi nghe bài hát. Chắc phải chép lại bài thơ, gửi cho ông nhạc sĩ này cho ông ta biết.”
-Mà chị Ba này, chị nhớ tác giả bài thơ ấy là là ai không vậy"
- Để coi... Hình như là của... Mà không...
Chị Ba kể ra tên nhiều thi sĩ nổi tiếng của miền Nam, nhưng rồi không nhớ được ra tên tác giả bài thơ.
Vậy tôi phải cám ơn ai đây khi nhờ bài thơ ấy mà tôi được điểm A của môn English Literature.
Cuốn thơ bìa đen hồi xưa không còn nữa. Người chép thơ cũng chẳng nhớ ra được tên tác giả bài thơ.
Thôi thì xin cám ơn chung các thi sĩ thời chiến tranh Việt Nam.

THUỲ DƯƠNG

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,425,453
Tác giả là một thuyền nhân, hiện là cư dân Quận Cam, đã tham dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2010 với bài viết Bài viết “Từ Câu Chuyện Cậu bé Thành Padua," thể hiện sự phẫn nộ trước việc nươc Tàu cộng sản trắng trợn lấn đất, lấn biển của Việt Nam, bắn giết ngư dân Việt. Sau đây là bài viết mới của bà.
Tác giả là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục năm 2000, từng là nhà giáo trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA. Ông là tác giả đã nhận giải thưởng danh dự Viết Về Nước Mỹ năm 2005. Bài viết mới của ông là một hồi ức dễ thương về đảo tị nạn Galang 2, với lời ghi “để nhớ hai người bạn đã đưa tôi đến Galang, Hải quân Trung uý Đạt và Hoa.
Tác giả họ Vũ, hiện là cư dân California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là “Giấc Mơ Thiên Đường”, truyện ngắn về một thảm cảnh gia đình Việt tị nạn. Bài thứ hai , “Trường Đời: Học Làm Chồng” là một truyện về ông gia trưởng gốc Việt học phép làm chồng từ ông Mỹ hàng xóm. Đây là một truyện vui nhanh chóng đạt số lượng người đọc đáng nể. Bài mới sau đây, tiếp tục cho thấy tài kể chuyện duyên dáng của tác giả. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ hiện phổ biến bài viết của năm 2013. Mong Tuyết Phong sẽ tiếp tục viết.
Tác giả tên thật Hùng Túy Trước, tuổi Giáp Ngọ, cư trú tại Austin, Texas, đã góp nhiều bài Viết Về Nước Mỹ đặc biệt. Giải thưởng Việt Báo năm thứ ba, cùng lúc với giải danh dự, Chúc Chân còn nhận thêm giải "Writing on America" cho bài viết bằng Anh ngữ. Sau đây là bài viết mới nhất của cô.
Tác giả đã góp nhiều bài viết với kiểu “viết như nói” và nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2005. Cô tên thật là Trần Thị Ngọc Trâm, sinh năm 1965 tại Saigon, thứ nữ một gia đình H.O. Công việc đang làm: nhân viên xã hội tại Salem Oregon. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả tự sơ lược tiểu sử: Trước năm 75, còn đi học, chỉ viết cho các báo thiếu nhi, học trò. Qua Mỹ từ 1990. Hiện ngụ tại Myrtle Beach, SC. Hải Âu tham dự viết về nước Mỹ từ 2010, bài đầu tiên: Mẹ Chồng, cho thấy tác giả có bút pháp đặc biệt, khi kể về hồn thiêng yêu thương của bà mẹ chồng. Bài thứ hai, Một Mảnh Đời Tị Nạn, kể về những ngày đầu mới tới nuớc Mỹ. Bài thứ ba: “Tôi Là Đốc Tờ Nail”. Sau đây là bài viết mới nhất.
Đây là bài Viết Về Nước Mỹ thứ năm của Lê Thị, trong số 7 bài tác giả đã liên tiếp gửi về cho toà báo. Trong số này, có 4 bài viết về đề tài đồng tính. Lê Thị -cư dân Chicago, 35 tuổi- với tài viết và sức viết mạnh mẽ khác thường, hiện là tác giả dẫn đầu số lượng người đọc Viết Về Nước Mỹ trong hơn hai tháng qua.
Tác giả là một huynh trưởng viết về nước Mỹ, thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết, vừa phải báo “tạm rút” năm nay. Điện thư của ông ngày 25 tháng 6, nguyên văn như sau:
Tác giả đã góp nhiều bài viết giá trị cho Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biên đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA.
"Hồi Ức Tháng Tư của Long Mỹ" là bài viết của Paul LongMy Choate, Đại Tá Hải Quân, một cấp chỉ huy trên Hàng Không Mẫu Hạm nguyên tử lớn nhất của Hoa Kỳ USS CARL VINSON (CVN-70). Đây là con tầu đã tung ra các đợt tấn công đầu tiên trên không ở Afghanistan sau biến cố 9/11 và cũng chính nó đem thi hài Osama Bin Laden thủy táng trên biển. Tháng Tư 2012, cũng con tầu này đã tiến vào Thái Bình Dương, thăm Úc, đánh dấu việc Hoa Kỳ chuyển trọng tâm chiến lược sang Á Châu.
Nhạc sĩ Cung Tiến