Hôm nay,  

Xì Bông Xoa

01/10/200500:00:00(Xem: 117524)
- Người viết: Hoàng Đức
Bài số 838-1428-264-vb7100105

Tác giả đã được trao tặng một giải thưởng đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2005. Ông sinh năm 1940. Trước ở Việt Nam làm nghề dạy học, sang Mỹ làm đủ mọi nghề thượng vàng hạ cám trước khi lại tiếp tục nghề dạy học ở cấp Trung học và Đại Học Cộng Đồng. Hiện là cư dân Westminster, đang hưu trí và đùa giỡn cùng bạn bè qua Email.
*
Sự hình thành của từ ngữ mới này là một kết hơp thật khéo léo có tính cách bình dân đại chúng mà các nhà ngôn ngữ học chỉ biết cúi đầu chào thua.
“Xí bông xoa”. Nghe văng vẳng bên tai như tên gọi âu yếm của một cô bé xinh xắn, nhí nhảnh và nũng nịu "Bống Bồng Bông." Nhưng không, đây là từ ngữ Sponsor của Anh văn. Giới bình dân Việt Nam không rành ngoại ngữ, không muốn uốn lưỡi, nghiến răng lôi thôi khi phát âm chữ S của Pháp văn và Anh văn, họ bèn thay thế bằng hai chữ XI cọng thêm một dấu huyền. Bây giờ đến phụ âm P mà chúng ta thường gọi là P phở để phân biệt với B bò. Chữ P phở này ngay các nhà khoa bảng nhất là mấy ông ngườì Nam cũng không ít người phát âm sai thành B bò. Do đó, để tiện việc sổ sách, dân ta bèn phang ngay chữ B vào để thay thế. Tiếp theo là chữ Sor thì thật là rắc rối vì phải uốn éo mồm miệng sao cho vừa đủ tròn, không vuông, không méo, mới phát âm đuợc. Thế tại sao không thay thế bằng chữ Xoa vốn đã có sẵn trong ngôn từ Việt Nam ta.
Phiên âm sponsor thành xì bông xoa” thật là khôn khéo. Nhờ vậy mà trong ngôn ngữ của ta có thêm một danh từ mới mẻ rất thông dụng sau 1975 nhất là ở các trại tỵ nạn của Liên hiệp quốc tại Mã Lai và Nam Dưong.
Thời đó, suốt ngày, đi đến đâu cũng nghe nói đến "Xì bông xoa" như một thuật ngữ, như một phù chú mà khi nói lên thì dân tỵ nạn thấy trong lòng phấn khởi, nét mặt rạng rỡ.
Vâng, phải có "Xì bôngxoa" mới mong định cư, mới mong rời khỏi trại tỵ nạn, mới mong đến được bến bờ tự do, mới mong xây dựng tương lai, sự nghiệp trên xứ người.
"Xibôngxoa" là ân nhân, là Mạnh thường Quân, là lá bùa hộ mạng của người Việt tỵ nạn trên xứ Cờ Hoa. Tôi nhớ có một cựu sĩ quan chúng tôi gặp ở trại tỵ nạn Galang đi đâu cũng khoe ca sĩ TT một tên tuổi lẫy lừng trong ngành ca nhạc trước đây tại quê nhà là "Xìbôngxoa"của ông ta. Lúc bấy giờ, thú thực tôi cũng ao ước có được một "Xìbôngxoa" sáng giá như thế để nhờ cậy trong cảnh túng thiếu của trại tỵ nạn và sau này, lúc định cư tại Mỹ vào "cái thuở ban đầu lưu luyến ấy".
Lại có một ông Bác sĩ sung sướng khoe "Xì bông xoa"của ông là giám đốc USCC tại một thành phố lớn ở Mỹ vì vậy ông hy vọng rằng ông sẽ sớm được đi định cư trước những thuyền nhân khác. Thế rồi sau đó, lúc tôi sang định cư ở Mỹ (sau ông ta vì tôi đến Galang sau ông ta), bắt liên lạc được với ông, tôi hỏi thăm tình hình công việc của ông, ông đã ngậm ngùi thú nhận là chức vụ giám đốc USCC của ông "Xìbôngxoa" không phải "to" và quan trọng như ông nghĩ nên ông này cũng chẳng giúp gì được cho gia đình ông ta ngoài việc kiếm cho ông một công việc thật khiêm nhường chả liên quan gì đến văn bằng Bác sĩ của ông và vợ ông ta thì chỉ làm được một công việc lằng nhằng với mức lương tối thiểu theo luật định.
Sang đến Mỹ, tiếp xúc với thực tế ta mới thấy những sai lầm trong nghĩ suy đơn giản của ta. Chức vụ giám đốc như trong hệ thống hành chánh của ta thật là quan trọng. Trái lại, ở Mỹ, ví dụ như trong cơ quan USCC, chỉ cần phụ trách một chương trình nào đó như Chương trình làm thẻ xanh, chưong trình tìm kiếm việc làm (nhân dụng) hay chương trình đoàn tụ ODP cũng được gọi là Program Manager và nếu dịch ra tiếng Viêt Nam tức là Giám đốc chương trình và để đơn giản hóa vấn đề vì ta làm việc cho USCC ta có thể tự phong là Giám đốc USCC cũng chẳng có ai bắt bẻ gì và những người Việt Nam không am hiểu hệ thống hành chánh Mỹ rất dễ nhầm lẫn về giá trị, tầm mức quan trọng và giới hạn quyền hành của các chức vụ tại những cơ quan công quyền hay tư nhân Mỹ.
Không biết trước tôi, trong mục “Viết Về Nước Mỹ" đã có ai viết về "Xibôngxoa" chưa, tôi không nhớ rõ. Sở dĩ tôi muốn viết về "Xibôngxoa" vì vợ chồng ông "Xibôngxoa" của chúng tôi sau 19 năm xa cách gia đình tôi, kẻ Bắc (ông ta ở New Hampshire) ngưòi Nam (chúng tôi ở California) đã vừa lái xe xuyên bang qua thăm chúng tôi trong sự vui mừng đượm tình thương yêu thắm thiết.
Không biết những ai trong chúng ta còn liên lạc mật thiết với người bảo trợ đã có một thời giúp chúng ta sang định cư ở Mỹ. Riêng tôi vẫn nhớ đến Joe Doran, tên người bảo trợ gia đình tôi, nhớ như nhớ đến một ân nhân, một người bạn, một người em (Joe nhỏ hơn tôi 7 tuổi). Joe là một giáo sư Trung học, dạy môn Sử ký, vóc người tầm thước, có chiều cao khiêm nhượng so với người Mỹ nên đứng bên cạnh Joe tôi không mang mặc cảm "nhược tiểu" và lúc nói chuyện, tôi khỏi phải ngước mặt nhìn lên như khi nói chuyện với những người Mỹ cao to.


Joe thật hòa nhã và vui tính, anh giúp đỡ chúng tôi tận tình trong tất cả mọi sinh hoạt liên quan đến việc hội nhập vào xã hội Mỹ. Ngày đầu tiên tôi đến Mỹ, Joe đã mang đến biếu chúng tôi một chiếc bánh Pizza to tướng mà tôi nhớ mãi cho đến bây giờ. Ôi ngon ơi là ngon, lạ ơi là lạ. Chưa bao giờ chúng tôi được thưởng thức một chiếc bánh như thế. Màu vàng rộm ngon mắt, những lát nấm mềm mại mà mới nhìn, nước miếng đã ứa ra trong mồm. Fromage dẻo quẹo quyện vào những "phụ tùng" trên bánh làm lúc cắt pizza thành những lát theo hình rẻ quạt tôi liên tưởng đến mạch nha xứ Quảng, đến kẹo kéo Bắc Kỳ vừa ngon, vừa ngọt, vừa dẻo, vừa dai, vừa mềm lại thêm những lát ớt nằm thênh thang trên chiếc bánh mang lại hương vị của quê hương tôi (Tôi là người Việt gốc ớt, tôi là dân Huế, ăn ớt nhiều đến nỗi ớt không bao giờ kịp chín).
Tôi mê Pizza từ dạo đó! Tôi muốn nói với Pizza như trong ca khúc "Biết nói gì đây": " Hôm nao anh đã nói mình yêu nhau rồi đó." Tôi ghiền Pizza mãi cho đến một ngày tôi phải bôn ba trên dặm đường thiên lý, ngồi trên xe bus 36 tiếng đồng hồ đi kiếm job từ New Hampshire đến Kentucky. Trong suốt cuộc hành trình tôi chỉ ngồi gặm Pizza đến nỗi tôi ứ lên tận cổ và bỗng thấy thèm cơm, thèm phở, thèm da diết.
Đến Kentucky, vào nhà người quen, tôi yêu cầu cho tôi một dĩa cơm nóng với một chén nước mắm ngon và 1 kilo ớt trái tươi để tôi khoản đãi con tì con vị của tôi sau một ngày một đêm thiếu cơm.
Xin trở về với Joe vì tôi đã đi lạc đề quá xa do cái bánh Pizza.
Joe là một người đa cảm! Ngày chúng tôi từ giã Joe để sang Cali tìm nắng ấm và khí hậu ôn hòa, Joe đã khóc tức tưởi, nước mắt nước mũi nhồm nhoàm ướt cả bộ râu xồm và dù trong lúc cảm động vì tình nghĩa của Joe đối với gia đình chúng tôi, tôi cũng không thể không liên tưởng đến mấy câu hát lúc còn niên thiếu vì gương mặt của Joe lúc bấy giờ trông "khôi hài" không chịu được:
Râu chi râu mọc trên mồm , râu xồm
Râu chi râu mọc trên tai, râu quai
Cái râu lồm xồm là cái râu mọc trên cái mồm.
Joe lại rất thật tình, không màu mè, kiểu cách, sống thật bình dị nếu không muốn nói là đạm bạc. Tôi nhớ lúc chúng tôi rời New Hampshire, Joe đã hỏi xin vợ tôi bao gạo còn thừa mà chúng tôi đã để lại trong nhà vì không muốn mang theo mà cũng không dám đề nghị tặng lại Joe và Joe đã tỏ vẻ vui mừng ra mặt bảo với tôi là Joe rất thích cơm vì đã từng được gia đình chúng tôi mời đến nhà ăn cơm Việt Nam gần như thường xuyên. Thế là chúng tôi lại tặng cho Joe cái nồi cơm điện và chỉ cho Joe cách nấu cơm thế nào cho không khô và không nhão. Tôi nghĩ cũng không nhiều người Việt nam tỵ nạn được một "Xibôngxoa" dễ thương như Joe.
Cũng nên nói đến một khía cạnh khác của người bảo trợ. Một số đã dở khóc dở cười với người mà họ bảo trợ. Tôi có một anh bạn bảo trợ cho ông anh ruột sang Mỹ định cư, đã cho gia đình ông anh tá túc trong nhà, đối xử như bát nước đầy thế mà một hôm ông anh hội họp gia đình và trịnh trọng bảo người em:
"Từ bao lâu nay Chú đã giúp gia đình anh thật nhiều, anh rất cảm ơn chú nhưng đã đến lúc anh muốn ra ở riêng để khỏi làm phiền chú thím, vậy anh xin chú giao lại cho anh số tiền trợ cấp và tiền hưu mà chính phủ Mỹ đã trả cho anh trong thời gian anh phục vụ trong quân lực Việt Nam Cộïng Hòa trước đây mà chú đang cất giữ."
Thế là tình nghĩa anh em đã chấm dứt từ hôm đó dù sau này ông anh đã biết mình hiểu nhầm vì những tin đồn bịa đăt, nhảm nhí lúc còn ở quê nhà. Ông ta đã hổ thẹn và vì tự ái nên không muốn nhìn mặt người em. Đấy là nỗi khổ tâm của "Xibôngxoa".
Lúc ở trại tỵ nạn thì đi đâu và bất cứ lúc nào cũng nói về quyền thế, (trong tưởng tượng sai lầm) về sự giàu sang, về nhiệt tình, về lòng tốt của "Xibôngxoa" Đặt quá nhiều hy vọng vào người bảo trợ, đến lúc va chạm với thực tế, vì không được những gì họ mong muốn từ người bảo trợ nên một số người Viêt Nam chúng ta đã quên đi tình nghĩa của những ân nhân ít nhất cũng đã giúp họ hoàn tất hồ sơ đưa họ vào định cư trên đất Mỹ. Âu cũng là một điều đáng tiếc trong những" vui buồn đời tỵ nạn."
Tôi viết bài này để vinh danh những nhà hảo tâm đã giúp chúng ta vào định cư tại Mỹ, đã giúp chúng ta hội nhập vào xã hội tân tiến thật xa lạ với chúng ta trong lúc chúng ta ngỡ ngàng, chân ướt chân ráo trên xứ lạ quê người. Một lúc nào đó, khi niềm hứng dâng cao, tôi sẽ rị mọ dịch bài này ra Anh văn để gửi cho Joe Doran, người "Xibôngxoa" quý mến của gia đình tôi. Mong rằng tôi sẽ có thì giờ và đủ khả năng để "Xibôngxoa" của tôi nở nụ cười thoải mái thấy việc làm của anh ta ít ra cũng không đến nỗi vô nghĩa.
HOÀNG ĐỨC

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 863,151,526
Vận nước nổi trôi, tôi đến Hoa kỳ vào tháng chín năm 1975.   Ngồi trên xe từ phi trường về nhà trọ, tôi thấy ngay cái không khí ở đây khác với không khí tại những nơi tôi đã đi qua.   Nó có phần tươi mát hơn, khoáng đạt hơn.   Không phải là một người trong ngành y khoa, tôi không biết cái gì đã kích thích ngũ quan
Tôi chầm chậm đậu xe vào cái chỗ quen thuộc của tôi mỗi sáng chủ nhật, đó là một mảng lề thoai thoải giữa chừng con dốc, được thêu vá bởi màu sắc hoa Vàng Anh và cỏ dại. Bên kia là một cái park rộng thênh thang với những nhánh thông xanh nếu nhìn một lần sẽ không rõ là thiên nhiên hay là tranh vẽ,
Anh đã từng ghé lại Câu Lạc Bộ, Anh nói chuyện với anh em với tất cả hào khí của người lính! Anh khẳng định: Sống là chiến đấu, là chấp nhận thử thách! Đôi khi đời không yêu ta, ta cũng phải há mồm cắn vào nó, ghì chặt nó, như xích của tank cạp lấy mặt đường, bùn lầy
Sau khi tham dự thánh lễ Phục Sinh về, đang ngồi viết lại những kỷ niệm buồn vui của đoạn đường di tản từ bãi biển Non Nước đến Cam Ranh rồi Vũng Tàu và chấm dứt đời lính tại căn cứ Sóng Thần vào sáng 30-4-75 thì con gái tôi gọi chỉ cho coi ca sĩ Chế Linh trong bộ quân phục
Anne Khánh-Vân, 33 tuổi, hiện đang sống tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Sau khi tốt nghiệp Kinh Tế Kế Toán và sống một thời gian ở Pháp, cô sang Mỹ và hiện đang vừa làm việc và vừa học thêm về Management Information System.   Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của cô là “Làm Lành Vết Thương Xưa”, kể chuyện gặp gỡ
Tôi cởi tung quân phục, xếp gọn gàng lại, đặt trên đầu giường. Tôi nhìn đôi lon trung úy lần cuối. Nhìn chiến hạm lần cuối. Nhìn những bậc thang lên đài chỉ huy, như đưa tôi lên đài danh vọng thuở nào. Nhìn những bậc thang dẫn xuống hầm tàu, dẫn xuống lòng nước - như chôn vùi tuổi tên, chôn vùi cả một cuộc đời
Đào Như là bút hiệu của   Bác sĩ Đào Trọng Thể, tác giả đã được trao tặng giải Viết Về Nước Mỹ 2005,   "Tác Phẩm Xuất Sắc Nhất", với các bài “Tự Khúc”, “Dấu Chân Người Lính.” Trước 1975, ông là một y sĩ tiền tuyến chuyên về phẫu thuật. Định cư tại cư dân Oak Park, IL (vùng Chicago) Hoa Kỳ, ông là chuyên gia
Sau khi tham dự thánh lễ Phục Sinh về, đang ngồi viết lại những kỷ niệm buồn vui của đoạn đường di tản từ bãi biển Non Nước đến Cam Ranh rồi Vũng Tàu và chấm dứt đời lính tại căn cứ Sóng Thần vào sáng 30-4-75 thì con gái tôi gọi chỉ cho coi ca sĩ Chế Linh trong bộ quân phục
Anne Khánh-Vân, 33 tuổi, hiện đang sống tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Sau khi tốt nghiệp Kinh Tế Kế Toán và sống một thời gian ở Pháp, cô sang Mỹ và hiện đang vừa làm việc và vừa học thêm về Management Information System.   Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của cô là “Làm Lành Vết Thương
Tác giả định cư tại Hoa Kỳ từ 1987, hiện là một bác sĩ đang hành nghề tại quận Cam . Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là "Hạnh phúc rất đơn giản" kể chuyện về cách nhìn, cách nhận chân hạnh phúc của người phụ nữ Việt tại Hoa Kỳ qua ba hoàn cảnh sống khác nhau. Sau đây là bài viết thứ năm của bà.
Nhạc sĩ Cung Tiến