Hôm nay,  

Tình Đồng Đội

29/04/200700:00:00(Xem: 150726)

Tác giả: NGUYỄN DUY AN

Bài số 940-1540-264-vb4021506

*

Nguyễn Duy An là người Á châu đầu tiên đảm nhiệm chức vụ Senior Vice President của National Geographic. Năm 2006, ông là tác giả được trao tặng giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ.

Bài viết của ông cho tháng Tư năm nay kể lại câu chuyện 32 năm sau của đơn vị Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ cuối cùng đến Việt Nam để di tản Tòa Đại Sứ và nhân viên Hoa Kỳ ở Sàigòn vào cuối Tháng 4, 1975, với những chi tiết xúc động do chính các cựu chiến binh trong đơn vị kể lại.

*

Tôi suy đi nghĩ lại cả tuần lễ nhưng không tìm được tựa đề thích hợp cho bài viết này; do đó, để vinh danh tinh thần của những cựu chiến binh Hoa Kỳ đã không bao giờ quên những "đồng đội cuối cùng" hy sinh thời chiến tranh Việt Nam, tôi quyết định đặt tên bài viết này là "Tình Đồng Đội".

Một buổi chiều đầu Tháng Tư 2007, tiến sĩ Robert Ballard rủ tôi cùng đi ăn cơm tối với hai người bạn mới là cựu chiến binh Hoa Kỳ để bàn về một dự án mà ông ta nói liên quan tới "Việt Nam của cậu".

Từ khi National Geographic tổ chức cuộc triển lãm những hình ảnh về chiến tranh Việt Nam, mỗi lần nói chuyện gì liên quan tới Việt Nam, Bob (tên tắt của Robert) đều bảo tôi "Việt Nam của cậu". Nếu có ai thắc mắc, Bob luôn luôn vui vẻ trả lời "vì John được sinh ra và lớn lên trong cuộc chiến ở Việt Nam," nhưng ở chỗ riêng tư, Bob tâm sự: "Càng biết nhiều về Việt Nam, tớ càng cảm nhận được lý do tại sao lúc nào cậu cũng hãnh diện là người Việt Nam."

Tiến sĩ Robert Ballard là một trong những "Explorer-in-residence" của National Geographic. Tên tuổi ông ta gắn liền với nhiều cuộc thám hiểm, nghiên cứu, và tìm kiếm các di tích lịch sử chìm sâu dưới lòng đại dương, chẳng hạn như các con  tàu và chiến hạm Lusitania, Bismarck, Guadalcanal, hay USS Yorktown, và đặc biệt nhất là việc ông tìm ra chiếc tầu R.M.S. Titanic. Tôi quen thân với Bob vì kính nể tài năng của ông, và nhất là thỉnh thoảng được ông "bật mí" trước một vài dự án sắp thực hiện cũng giúp ích rất nhiều cho công việc của tôi khi phải cung cấp thiết bị máy mo'c, hệ thống liên lạc và tiếp tế cho những công trình nghiên cứu của ông ta. Do đó, khi nghe Bob rủ đi ăn tối, tôi vui vẻ nhận lời ngay để thỏa mãn tính tò mò muốn biết cái dự án "liên quan tới Việt Nam của cậu" là gì.

Lúc tôi đến nhà hàng, Bob không biết từ đâu ào ào hiện đến, một tay cầm ly rượu vang, một tay kéo tôi đi như chạy về phía cuối nhà hàng:

- Kẹt xe hả" Tớ chỉ sợ cậu không tới được. Từ nãy giờ hai tay kia cứ dồn tớ vào chân tường với bao nhiêu câu hỏi dồn dập vì tớ lỡ giới thiệu cậu xuất thân là một thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam.

Vừa tới bàn, Bob rộn rã giới thiệu:

- Đây là John tôi nói với mấy ông từ nãy tới giờ đó. Không có cậu này thì hai năm trước đoàn thám hiểm của tôi bị nhốt ngoài "Biển Chết" mấy tháng trời không có email, điện thoại hay truyền hình gì cả. Cậu ta lo hết máy móc điện toán, điện thoại, vệ tinh& đủ thứ từ sa mạc tới đại dương hay giữa rừng già Phi Châu cho National Geographic đó.

Bob nói liên tu ti bất tận trong khi tôi bắt tay làm quen hai người bạn mới khá lớn tuổi. Giọng Bob vẫn đều đều bên tai tôi:

- Ông này là sử gia cận đại, Alan Harbour; còn đây là Stephen Wills. Cả hai đều là cựu chiến binh Hoa Kỳ đã từng tham chiến ở Việt Nam. Họ đang tìm cách vớt xác hai đồng đội cuối cùng đã hy sinh thời chiến tranh Việt Nam ở ngoài khơi Vũng Tàu. Hình như mùa hè năm ngoái, lúc về Việt Nam cậu đã "du hý" ở Vũng Tàu một tuần, phải không" Thôi. Xin lỗi nghe. Tôi nói nhiều quá. Này, Alan, ông kể cho John nghe về dự tính của các ông đi.

Ông Stenphen Wills, mặc dầu tuổi đã lớn nhưng cũng còn "oai phong lẫm liệt" như một vị tướng; riêng ông Alan Harbour, tôi không thể nào hình dung được ông đã từng là một chiến sĩ Thuỷ Quân Lục Chiến: Người dong dỏng, trán hói, đôi mắt rất sắc sảo đằng sau cặp kiếng dày cộm, miệng lúc nào cũng chúm chím sắp cười.

Ông Alan từ tốn lên tiếng:

- Thật may mắn cho chúng tôi! Bob lúc nào cũng ca ngợi John hết mình. Chúng tôi thuộc đơn vị Thuỷ Quân Lục Chiến cuối cùng đến Việt Nam để di tản Tòa Đại Sứ và một số nhân viên Hoa Kỳ ở Sàigòn vào cuối Tháng 4, 1975. Tôi thuộc nhóm trên bộ, lo bảo vệ an ninh cho chương trình di tản, còn Steve là trưởng toán kỹ thuật của đoàn trực thăng vận. Lúc đó chắc John còn trẻ lắm, phải không"

- Vâng. Tôi vẫn còn là học sinh. Những ngày cuối Tháng Tư năm đó, tôi đã vào Tòa Đại Sứ hai lần nhưng vì không phải là nhân viên sở Mỹ nên chẳng ai cho lên máy bay. Tôi cũng vào bên trong phi trường Tân Sân Nhất mỗi ngày bằng cách chui hàng rào, nhưng sau vụ pháo kích vào phi trường tôi không dám bén mảng vô đó nữa. Số tôi không may mắn vì đã có lần leo lên được trực thăng nhưng bị một anh lính mang tên W. N. Walker đẩy xuống. Bây giờ ông ấy là bạn tôi đấy, có thể các ông cũng quen.

- John cũng có mặt trong phi trường Tân Sân Nhất hôm bị pháo kích hả" Hai người lính trẻ của chúng tôi, những người cuối cùng hy sinh trên đất Sàigòn vào ngày 29 tháng 4, 1975 trong trận pháo đó: Hạ sĩ Charles McHahon, Jr. và Binh Nhất Darwin Lee Judge. Ôi! Mấy chục năm qua rồi mà những hình ảnh ngày đó vẫn còn hiện rõ trong tâm trí tôi như chuyện mới xảy ra ngày hôm qua!

Tất cả chúng tôi cùng im lặng. Tâm trí tôi quay cuồng nhớ lại những ngày bi thương thuở ấy. Suốt 10 ngày cuối Tháng Tư 1975, tôi chạy đi chạy về từ Toà Đại Sứ ra phi trường Tân Sân Nhất hay bất cứ nơi nào nghe tin sẽ có trực thăng tới bốc người di tản... Rồi ở Bến Bạch Đằng tôi cũng không trèo lên được chiếc xà lan cuối cùng rời bến nên đành "nằm gai nếm mật" suốt 8 năm trời mới đặt chân tới đảo Galang, Indonesia bắt đầu cuộc sống tha hương.

Bob đánh tan bầu không khí tĩnh lặng:

- Phút mặc niệm đã qua, các ông nói với John về dự án vớt xác trực thăng và phi công ngoài khơi Vũng Tàu đi.

- Vâng. Như tôi vừa nói, Charles và Darwin là hai người lính trẻ cuối cùng hy sinh trên đất Sàigòn nhưng họ không phải là hai chiến sĩ cuối cùng hy sinh trong lãnh thổ Việt Nam. Tôi xin nhường lời lại cho Steve vì anh ta đã chứng kiến tận mắt.

Với một giọng nói hùng hồn của một "võ tướng", Steve dõng dạc lên tiếng:

- Tôi, phải, chính tôi đã tận mắt chứng kiến chiếc trực thăng YT-14 chìm sâu xuống lòng biển Thái Bình Dương mang theo hai chiến sĩ Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ là Đại Uý phi công William Craig Nystul và Trung Uý phụ lái Michael John Shea vào khoảng nửa đêm 29-30 tháng 4, 1975 gần sát bên Hàng Không Mẫu Hạm USS Hancock. Họ là hai chiến sĩ Thuỷ Quân Lục Chiến cuối cùng hy sinh trong chiến tranh Việt Nam, và xác họ vẫn còn bị chôn vùi với chiếc trực thăng bị nạn ở tọa độ N 09 55' 32" E 107 20' 06" cách bờ biển Vũng Tàu khoảng 30 hải lý. Đám cựu chiến binh chúng tôi không hiểu tại sao Chính Phủ và Bộ Quốc Phòng không chịu tìm kiếm và đưa xác hai người đồng đội cuối cùng của chúng tôi về nhà mặc dầu cuộc chiến đã kết thúc hơn 30 năm rồi! Với kỹ thuật hiện đại, tôi thiết nghĩ đây chỉ là một chuyện rất nhỏ và rất dễ dàng thực hiện nhưng không ai chịu làm. Người ta chỉ muốn quên đi vết thương cuộc chiến Việt Nam, nhưng chúng tôi, những người đã từng sống chết bên nhau, chúng tôi không bao giờ quên đồng đội của mình, và nhất là chúng tôi còn có trách nhiệm với gia đình và thân nhân của đồng đội chúng tôi nữa. Hai chiến sĩ bỏ mình tại Tân Sân Nhất đã được hồi hương năm 1976: Charles đã trở về Woburn, Massachusetts và Darwin cũng đã về nhà ở Marshalltown, Iowa. Chúng tôi đang tìm cách gây quỹ, vận động Chính Phủ, Quốc Hội liên hệ với Việt Nam, và hy vọng các ông có thể giúp chúng tôi về việc tìm kiếm vì đó là nghề của National Geographic, phải không"

Tôi thở phào nhẹ nhõm khi Steve dứt lời. Ông ta nói một hơi không ngừng nghỉ với tất cả tâm hồn và nhiệt huyết như đang thuyết trình trước đoàn quân trước giờ lâm trận. Tôi phải công nhận giọng nói và cách diễn tả của ông Steve quá sống động và khích động lòng người. Mấy lời tâm huyết của ông đã giúp tôi hiểu được ý nghĩa đích thực về tình động đội của các chiến sĩ, không phải chỉ trong lúc đánh trận mà mãi mãi đến hết đời của họ. Có lẽ Bob cũng rất cảm kích vì những lời nói của Steve nên mạnh dạn lên tiếng:

- Khi hoàn cảnh cho phép và giấy tờ thủ tục xong xuôi, chúng tôi sẽ tận dụng hết khả năng. Phải không John" Nếu tụi mình dính vào cái dự án này, bọn tớ khỏi cần thuê thông dịch viên. Tớ bảo đảm cậu không thể nào từ chối việc tháp tùng vì việc này liên quan đến "Việt Nam, Quê Hương yêu dấu của cậu" mà. Đồng ý chứ"

- Mình chẳng ngại gì cả, nhưng giấy tờ thủ tục chắc còn nhiêu khê lắm. Đầu tiên là tiền đâu, nhưng rồi cũng còn nhiều khó khăn và ràng buộc khác, đúng không"

Ông Alan bình tĩnh lên tiếng dẫn giải:

- Phải, nhưng chúng tôi rất vui vì được hai vị đồng ý giúp đỡ. Chúng tôi sẽ vận động gây quỹ. Chỉ cần Bob nhận lời và cho biết chi phí cho công việc và đứng ra hướng dẫn là chúng tôi mừng lắm rồi. Chúng tôi cũng biết những khó khăn và tế nhị giữa quan hệ của hai chính phủ Việt - Mỹ. Chúng tôi cũng hiểu rằng sau hơn 30 năm, với bao nhiêu trận động đất và sóng thần xảy ra ở Thái Bình Dương, việc này không phải đơn giản như Steve nghĩ đâu. Tuy nhiên, chúng ta chỉ cần cố gắng hết sức mình, tôi tin chắc sẽ thành công. Tất cả chúng tôi đều đã già và từ từ rụng xuống.

Hai mắt ông Alan long lanh ngấn lệ. Giọng nói ông nghẹn ngào, đứt quãng:

- Chúng tôi muốn cho thế giới và linh hồn của đồng đội của chúng tôi hiểu rằng chúng tôi không bao giờ bỏ rơi đồng đội của mình. Chúng tôi đã "van xin" và chờ đợi quá nhiều năm rồi. Chúng tôi mong ước rằng công việc này sẽ được hoàn tất trước khi người cựu chiến binh cuối cùng thời chiến tranh Việt Nam trở về cùng đất lạnh. Tất cả chúng ta rồi sẽ có ngày gặp nhau "bên kia thế giới" và chúng tôi không muốn phải hổ thẹn khi gặp lại đồng đội ngày xưa của mình. Tôi xin thay mặt cho tất cả đồng đội của mình, đặc biệt là hai chiến sĩ đang chìm sâu dưới lòng biển Thái Bình Dương, thành kính cúi đầu cám ơn quý vị. Bill ơi! Mike ơi! Bọn tớ sẽ đưa hai cậu về nhà. Hãy chờ nhé!

Một vài giọt lệ nhỏ xuống mặt bàn.

Ôi! Cảm động quá! Đẹp quá!

Tôi không biết làm sao để diễn tả hết ý nghĩa về tình đồng đội, tình chiến hữu qua tâm tình của mấy người cựu chiến binh Hoa Kỳ tôi vừa mới quen.

Mà sao bồi hồi quá!

Vì lòng riêng, không thể không nhức nhối. Thêm một lần Tháng Tư đang trở lại. Những ngày này năm xưa, biết bao chiến sĩ và đồng bào của chính mình đã gục ngã, xương cốt còn vật vờ trong đất, khuất tất trong đại dương. Bao giờ và cách nào để tất cả "về nhà""

Ý kiến bạn đọc
21/11/201922:01:28
Khách
Bai viet hay qua. Uoc mong tac gia viet phan hai (Part 2) ve ket qua cua du an nay.
Cam on!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,767,362
Phi trường quốc tế Los Angeles mà người ta vẫn gọi tắt là LAX vào một buổi sáng thứ bảy có đông hành khách ngồi chờ ở những hàng ghế trước các cổng lên máy bay được đánh số theo thứ tự. Mặc dù California là thành phố đa số người Mỹ gốc châu Á chọn định cư vì có khí hậu ấm áp tương tự khí hậu Dalat của Việt Nam, nhưng tại
Chuyến bay từ Paris tới Houston mất 9.25 phút. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên hàng không báo hiệu phi cơ hạ cánh vào lúc 4 g ngày thứ bảy 20/5/2006. Thọ chận một nam tiếp viên, giọng cố ý nhỏ nhẹ: - Ông làm ơn lấy dùm tôi những bức tranh tôi đã gởi vào cabine đặc biệt. - Rất tiếc tôi không giúp bà được. Trước khi xuống bà hỏi những
Tác giả Ai Cơ Hoàng Thịnh là một nhà giáo tại tiểu bang Victoria, Úc. Bà là người đã vận động đưa được tiếng Việt vào chính khoá và chương trình thi Tú Tài Úc, từ 1983 tới nay; Đã được Úc vinh danh Citizen of the Year 1994 tại Thành phố Footscray Teacher of the Year 1997 tại tiểu bang Victoria.
Vài năm nữa tôi sắp bước vào thời kỳ thất thập cổ lai hi. Đời người đi qua mau như thế tưởng được yên, chẳng ngờ chuyện nhân tình thế thái cứ quanh quẩn và tôi lại tiếp tục bị quấy rầy. Năm 1975 người Việt miền Nam đã mất những kỷ niệm quá khứ để ra đi, chỉ đem theo với mình tinh thần văn hoá dân tộc, trong đó ngôn ngữ
Trước khi vào câu chuyện xin được nói sơ qua về Maya Lin, tác giả của Bức Tường đá đen ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn, ghi danh các chiến sĩ Hoa Kỳ chết trong chiến tranh Việt Nam. Sinh năm 1959 tại thành phố Athens, tiểu bang Ohio, Maya Lin gây được sự chú ý của công chúng khi cô còn là một sinh viên 23 tuổi ở năm cuối Đại Học Yale
Thứ Sáu trước, tôi đang đi làm thì bà xã tôi gọi điện thoại, dặn tôi trước khi về thì ghé chợ ABC trên Bolsa mua cho bà ít bánh tráng để làm chả giò. Lúc đó khoảng bốn giờ chiều, nên tôi vội vã chạy vào chợ mua cho lẹ, để tránh cảnh kẹt xe freeway trên đường về nhà. Đang lúc chờ tính tiền ở quầy, thì có một ông tóc bạc phơ
Gắn liền với hình ảnh của làng mạc êm đềm tại miền bắc Việt Nam xa xôi, nơi tôi chưa một lần đến thăm, là bóng dáng của những cây đa to lớn sừng sửng đứng hiên ngang ở đâu đó. Ngày xưa, hình như sau mỗi phiên chợ xa về, các bà các cô thường hay dừng chân nghỉ ngơi đôi chút ở dưới những gốc đa như thế này. Những người nông dân
Bữa nay nữa là đúng 54 ngày tôi theo chồng về Mỹ. Mặc dù nước Mỹ đối với người Việt Nam chúng tôi không còn lạ lẫm gì cho lắm so với thời cuộc bây giờ, vậy mà tôi vẫn cứ ngỡ ngàng theo từng ngày tháng với cuộc sống mới mẻ nơi này. Tôi đang sống cùng chồng ở Jefferson, Oregan. Jefferson gần giống như Đà Lạt nhưng
1. Hướng Về Tương Lai Ngày từ mẫu đã trôi qua. Không khí ngày từ mẫu "Mother's day" vẫn còn phảng phất đâu đây. Nhân ngày này tôi hồi tưởng lại ngày từ mẫu hơn nửa thế kỷ đã qua. Mẹ tôi nay đã ra người thiên cổ. Nhớ tới bà tôi cảm động bùi ngùi thương tiếc. Bà ra đi trút được gánh nặng ngàn cân trên đôi vai bà với 7 cậu con
Pharmacy ngày thứ Bảy khách không đông lắm, nhưng cứ đều đều, đều đều, 10, 15 phút lại có người đem toa đến hoặc đến để trả tiền, lấy thuốc. Hôm nay mấy người cashier của Pharmacy xin nghỉ hết, thành ra ông manager của tiệm đưa một cô bé cashier ở phía trên xuống để phụ với Kim. Bảng tên trên áo cô bé có chữ Lillian
Nhạc sĩ Cung Tiến