Hôm nay,  

Ngươì Về Từ Đảo Guam

25/05/200700:00:00(Xem: 160102)

Ngươì viết: XUÂN ĐỖ

Bài số 1268-1879-584vb2210507

*

Tác giả 66 tuôỉ, cư dân Riverside, hiện là Guest Teacher cho Colton Joint Unified School District (nam California). Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông kể về số phận nghiệt ngã của  một  cựu đaị úy phi công về từ đảo Guam và trở thành người bạn đồng tù với tác giả. Bài viết  đặc biệt  kể về tấm gương hy sinh của vợ anh, sự thành đạt của con gaí anh, và sự  quảng đại hào hiệp của chính sách Mỹ dành cho gia đình người đã từng từ chối nước Mỹ.

*

 Anh H. quê ngươì Phan Thiết, tuôỉ chưa đầy ba mươi khi miền Nam vào tháng tư đen. Lớn lên như các thanh niên trong thơì chiến, anh chọn nghiệp bay. Được huấn luyện và check out taị Mỹ, anh trở thành  phi công khu trục cho Sư đoàn 3 Không Quân, bản doanh đóng taị Biên Hòa.Vốn là con một, mẹ anh có phần lo, nhưng ý con đã quyết nên bà chỉ  biết nguyện cầu cho con được bình yên và cầu mong quê hương một ngày hết chiến tranh.

Chiến tranh maĩ không dứt, mẹ bắt anh về quê lấy vợ.  Phần anh vốn sống nay chết mai,  chẳng muốn ai trở thành góa phụ . Nhưng vẫn có ngươì muốn  anh làm "khổ", phần vì môí tình gắn bó từ thuở học trò,  phần vì hai gia đình cũng đã biết nhau.  Rôì vợ chồng có một cháu gaí.  Vợ anh  ở vơí mẹ nuôi con, anh tiếp tục sống vơí đơn vị lo nghề bay bổng. Hai vợ chồng ít có dịp gặp nhau, nếu có chỉ qua những kỳ phép ngắn.

Đầu 75, tình hình đất nước biến chuyển quá nhanh.  Tây nguyên di tản, Phan Rang thất thủ.  Biên giơí phía nam, quê anh trở thành tuyến địa đầu. Anh vẫn bay, mà còn bay nhiều hơn, vì tính cách ác liệt của chiến trường, mấy lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc vỉ hỏa tiễn tầm nhiệt của đôí phương.  Phi đoàn cấm traị liên tục, anh chẳng có dịp về thăm vợ thăm con. Chuyện di tản, bỏ nước ra đi cũng chẳng hề vướng mắc trong tâm tư ngươì phi công trẻ.

 Nhưng đêm 29, trong khung cảnh  hỗn loạn của Saigòn thất thủ, sợ cảnh tắm máu, anh cùng đồng đôị cất cánh từ Tân Sơn Nhất trực chỉ căn cứ Không  quân của Mỹ  trên đất Thaí. Từ đây anh được bốc thẳng qua đảo Guam. Ra đi trong sự vôị vã, tức tươỉ khộng một lơì từ giã ngươì thân.

...Tơí Guam, biết là thoát chết khi nhìn laị thân phận mình.  Nhưng mẹ,vợ và con thì giờ đây nghìn trùng xa cách. Lòng anh ray rứt, lắm lúc muốn khùng. Biết không còn lựa chọn nào hơn, anh đành lo thủ tục vào đất Mỹ.  Anh vẫn còn giữ địa chỉ của một viên cố vấn cho phi đoàn tên John K.  John là ngươì có tình, và là đồng minh đáng tin cậy.  Anh ta cho H. caí địa chỉ chẳng phaỉ để một ngày nào đó sử dụng trong hòan cảnh eó le này, mà là một cử chỉ hiếu khách của ngươì Mỹ muốn H. thăm gia đình John nếu có dịp nào đi chuyên tu taị Mỹ.

Nhận được tin tức của H. qua giơí chức Mỹ phụ trách di tản taị Guam, bằng một thaí độ sốt sắng, John bảo lãnh ngay cho H. vào đất Mỹ.  Về định cư tai một thị trấn nhỏ thuộc bang Montana, một vùng đất chăn nuôi và có xưởng sản xuất thịt bò, John xin cho H. một chân vác và xẻ thịt, lương khoảng 8 đô một giờ.

Ngày đi làm, đêm về một mình thui thuỉ trong căn apartment gần xưởng.  Lòng  buồn rươì rươị, hình ảnh mang nhiều trăn trở vẫn là mẹ, vợ, con. Thực sự những năm tháng chiến tranh, anh chẳng có nhiều thơì gian để nghĩ đến vợ con, nếu có thì cũng chỉ là những khoảnh khắc ít oỉ.  Đôi lúc có nghĩ đến ông cậu tập kết ra miền Bắc, một hình ảnh đuợc mẹ nhắc nhiều lúc tuôỉ thơ. Có điều lạ là  từ nay, nôĩ ám ảnh về chiến tranh và niềm đam mê bay bổng  một thơì dường như đã khép laị... 

Tình cờ đọc trên tuần báo TIME, thấy hình tướng Đảo (Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh) mặc thường phục đi trên đường Catinat, vơí lơì chú giaỉ như một con ngươì được tự do đi laị sau 75.  Baì viết của ký giả Mỹ thường trú taị Bangkok còn cho biết thêm về số phận các quân nhân, công nhân viên chế độ cũ là các Hạ sĩ quan học tập 7 ngày đã xong.  Các Sĩ quan cấp uý (10 ngày), Sĩ quan cấp tá (1 tháng) đang chuẩn bị trình diện học tập.  Học xong họ cũng được quay về sinh sống làm ăn.  Chính sách khoan hồng của Mặt Trận Giaỉ Phóng là trước sau như một, chuyện tắm máu như Kampuchia là không hề có.

Viên ký giả Mỹ túng tin như vớ được của đăng nguyên văn những gì mấy ông cộng sản cần noí. Nhưng sức thuyết phục của baì báo laị làm cho H. băn khoăn.  Tâm tư anh như ngọn gió muốn đôỉ chiều. Một câu hoỉ tự phát trong tiềm thức "taị sao ta không về""  Thương cho mẹ già chưa một lần báo hiếu. Sống làm gì khi "vĩnh viễn" xa vợ xa con. Chưa noí đến quê hương, dòng sông, đụn cát ...ký ức tuôỉ thơ sống laị trong anh.  Sau nhiều đêm trăn trở, anh quyết định tìm cách trở về.

Nơi đất lạ xứ ngươì, không còn ai thân thiết ngoài John.  Anh goị ngay cho John và bộc bạch ý nguyện của mình.  Sau phút kinh ngạc, John khuyên anh suy nghĩ laị.  Mặt khác, các giơí chức Mỹ đang bận lo cho ngươì mơí "đến", hơi đâu lo cho kẻ đoì "về". Nhưng vì thương bạn, laị có sự đồng cảm về môí liên hệ gia đình sâu đậm theo truyền thống văn hóa Việt mà John có dịp giao lưu qua chuyến phục vụ taị Việt nam, John mầy mò thế nào rôì cũng kiếm được một cơ quan thiện nguyện chuyên lo vụ "trở về xứ cũ" (repatriation).

Trùng hợp vào thơì điểm này, một số ngươì di tản hiện đang ở Guam vì hốt hoảng tháo chạy, nay hoàn hồn nhớ laị ngươì thân kẹt laị, cũng cha, mẹ, vợ, con như H.. Họ tranh đấu đoì về.  Nước Mỹ vốn là xứ tự do, ngươì Mỹ vốn có truyền thống nhân đạo, nên khuyên maĩ chẳng được, họ đành sắp xếp cho một chuyến tàu để đưa các ngươì Việt muốn quay về. 

Con tàu "Việt Nam Thương Tín" dùng để chở ngươì di tản tơí Guam hôì cuôí tháng 4, nay được đaị tu chuẩn bị cho chuyến khứ hôì xuyên đaị dương  đầu tháng 8.  Anh H. được cơ quan thiện nguyện cho "ráp" vào chuyến haỉ hành này.  Anh là ngươì duy nhất từ đất liền ra laị đảo và từ đảo lên tàu quay về cố hương. 

Cũng cần noí thêm hành trang trở về từ quần áo, thuốc men, lương thực, thực phẩm đến việc chọn lựa thủy thủ đoàn, diễn tập qui trình an ninh xuyên đaị dương v.v...đã được các giơí chức Mỹ trên đảo cùng các cơ quan thiện nguyện chuẩn bị khá chu đáo nhằm đảm bảo là các ngươì hôì hương được an toàn tôí đa.

Lênh đênh gần một tháng xuyên Thaí bình dương, tàu cập bến Nha Trang vào một sáng trơì quang mây tạnh. Tuy nhiên, không khí trên cảng có vẻ căng thẳng, không hồ hơỉ như moị ngươì mong đơị.  Các hành khách chuẩn bị rơì tàu để làm thủ tục haỉ quan.  Phụ nữ, trẻ em xếp hàng một bên; đàn ông, thanh niên một bên; hành lý có ngươì phụ trách.  Xong phần  thủ tục kéo daì nhiều giờ, anh H. và đoàn ngươì thuộc diện quân nhân, viên chức chế độ cũ, kể cả viên hạm trưởng HQ trung tá laí tàu về, được các công an chức năng "tặng" vòng số 8, lên xe bít bùng trực chỉ hướng Đèo Cả. Sau này mơí biết đó là một traị giam tù hình sự thuộc tỉnh Tuy hòa.

Dù cách  dàn chào có phần cay đắng, nặng tính hình sự, nhưng anh vẫn không tuỉ cho thân anh, mà anh tiếc chiếc cà rá đã mua cho vợ bằng số tiền  dành dụm trong mấy tháng làm ở xưởng thịt.  Kỷ vật nhỏ bé này trở thành "tang vật" bị tịch thu ngay khi lên bờ.  Nay bước chân vào traị, anh coi mình là kẻ thua cuộc, nhưng vẫn chưa chịu bỏ cuộc. 

Con ngươì tuy có dáng vẻ hào hoa, dễ mến  nhưng laị ẩn chứa một tính cách gan lì, nhẫn naị, không chịu khuất phục. Bề ngoaì  thuần phục theo nôị qui bảo gì làm nấy, nhưng bên trong đang thai nghén một ý đồ khá táo bạo... trốn traị! Vì có thể lực khỏe, trẻ, laị biết cách mưu sinh thoát hiểm (đã được dạy khi phaỉ bung dù trong vùng địch), anh liều chọn con đường tắt về gặp vợ, gặp con bằng một ý thức tuy nông cạn, nhưng vơí ý chí không gì ngăn cản nôỉ.

Chẳng đoán thì cũng hiểu là ý đồ thất baị sau hai ngày hai đêm.  Bị giaỉ về traị, biệt giam mấy tuần, laị còn bị gán cho caí tên "giặc laí ngoan cố". Ba tháng sau, để chặt đường trốn chạy, anh đựợc chuyển ra Bắc về "sinh hoạt" vơí đám tù chúng tôi taị traị Nam Hà.  Điều  nực cươì là  chúng tôi vì bị "kẹt" mơí chịu cảnh chim vào lồng biết thuở nào ra, còn anh là chim đã bay đi, nay về tổ "mẹ", mẹ không cho bú mẹ còn... bắt giam.  Nên từ đó nhóm bạn đồng tù mơí đặt cho anh caí tên thân thương  "Ngươì về từ đảo Guam", nhaí theo caí tựa phim "Ngươì về từ đỉnh nuí" rất ăn khách trước 75. Ấy vậy mà cũng có mấy ông Sĩ quan già gốc di cư lạị gọị anh "thằng ngu nhất hành tinh". Goị gì thì goị, anh chỉ cươì, vì vốn dĩ anh là ngươì dễ tin vì đảng ta cũng hay noí giống các cụ noí "đánh kẻ chạy đi, chứ ai đánh kẻ chạy laị"!

Ra Bắc tuy có lý lịch đen vì trốn traị, nhưng nhờ  được ông cậu bảo lãnh, nên H. thuờng được giao các chân "tự giác" tương đôí  dễ thở. Chả là sau chiến tranh, ông cậu về làm bí thư huyện ủy một huyện quê anh. Ít lâu sau vì lớn tuôỉ, sức khoẻ yếu, ông nghỉ hưu.  Rất tiếc quá trình chiến đấu và thâm niên trong Đảng không cứu được  thằng cháu khoỉ cảnh tù tôị vì đảng nghi cháu ông được CIA "gaì" cho về Việt nam chờ thơì hoạt động.

Ông không trách đảng vì ông hiểu qui luật sống còn của ngươì cộng sản là "bắt lầm còn hơn bỏ sót", thậm chí cảnh giác vơí cả chính đồng chí của mình. Nhưng ông đồng cảm vơí tâm trạng cháu ông, nó về laị quê hương động cơ thúc đẩy cũng chỉ vì nhớ vợ nhớ con.  Ngay như ông, dù thoát ly đi theo lý tưởng, nhưng sau 2 năm ra Bắc, mắc kẹt không được về Nam, nôĩ nhớ mong đã gậm nhấm tim ông suốt...20 năm.  Có điều khổ tâm vì không gỡ được chuyện thằng cháu, nên bà chị yêu quí có phần trách móc, lạnh nhạt vơí ông (dù chính ông đã làm giấy bảo lãnh cho cháu, mà tác haị của môí quan hệ này có làm "hoen ố" lý lịch trong sáng của cả đơì ông).

 

Chuyện 12 năm sau...

Thơì thế đã  xoay vần, chính sách có đôỉ thay, chúng tôi và cháu ông cũng có ngày về. Xuống ga Phan thiết, anh về gặp laị vợ con. Kiểm laị ngươì thân: mẹ còn nhưng cậu mất, vợ còn chung thủy, con đã lớn khôn. Cảnh nhà  xác  xơ, hiu quạnh vì lâu ngày không có bóng dáng đàn ông. Ở  nhà vơí vợ qua đêm, ngay sáng hôm sau, được phép của công an xã, anh đạp xe về thăm mẹ cách đó 15 cây số. Mấy chục năm mơí đạp laị chiếc xe cũ, thong dong trên đường quê quen thuộc, được hít thở không khí đồng nôị, anh cảm thấy nhẹ nhõm và thấy quí caí giá của hạnh phúc. Nhưng họa vô đơn chí, số phận nghiệt ngã dường như vẫn rình rập bước chân anh.

Ngay chiều hôm đó, chị X., vợ anh được cấp báo lên gấp bệnh viện huyện.  Tơí nơi, được mấy ngươì kể laị  chiếc xe đạp của anh H. bị gãy ghi đông làm anh té sấp xuống chỗ hố nông cạnh Đồng Ông Tộ (chỗ lở xụp này hay xảy ra tai nạn, nhưng giao thông xã chưa kịp vá). Máu ra nhiều ở chân, xem ra không nguy hiểm, nhưng có điều anh bất tỉnh.  Sau này khi đưa lên tỉnh, mơí vỡ lẽ là anh bị gãy cổ. Các y tá dươí thôn khi cấp cứu chỉ lo băng bó vết thương ở chân, không hề để ý chỗ chấn thương nặng là trung tâm thần kinh sau gáy.

Anh H. được chuyển về bệnh viện Chợ Rẫy (Saigòn) trong tình trạng bị liệt tứ thân. Dù có sự tận tình cuả bác sĩ, y tá, nhưng việc phục hôì chức năng của trung tâm cột sống hầu như vô phương.  Bệnh viện khuyên chị H. đưa anh trở laị quê. Ít lâu sau chuyện gì tơí nó phaỉ tơí, anh trở về lòng đất mẹ.

Bẵng đi cả mươì năm...

Một hôm tôi nhận được cú điện thoaị từ Bắc Cali. Đầu giây bên kia là một giọng nữ ngươì miền nam Trung bộ.

"Cho em xin gặp anh T."

"Tôi đây, xin lôĩ ai đầu giây""

"Em là Kim X., vợ của anh H. đây. Anh có nhận ra em không" (cô không dè qua điện thoaị làm sao nhận được). Cô noí tiếp:

"Em vẫn biết ơn anh chị thương tuị em nhiều lúc anh H. nằm ở Chợ Rẫy.  Sang đây maĩ không liên lạc được, nay anh G. mơí cho số của anh." (G. bạn thân của H., cùng traị vơí tôi)

Qua câu chuyện được biết anh H. mặc dầu không chết trong traị, nhưng vì tù đã trên 12 năm, các giơí chức Mỹ ở Bangkok vẫn xét cho mẹ con cô được định cư taị Mỹ theo diện nhân đạo H.O.. Có điều lạ là qua cuộc phỏng vấn họ không hề đả động gì đến chuyện anh bỏ Mỹ về laị Việt nam hôì 75. Điều này đánh tan môí quan ngaị của mẹ con cô trước khi đi phỏng vấn vì tin đồn Mỹ không nhận laị những ngươì đã theo tàu Việt Nam Thương Tín về từ đảo Guam.

Sang tơí Mỹ, được các bạn tù thân thiết giúp đỡ, đùm bọc nên chị và cháu gaí như có chỗ dựa tinh thần.  Hết trợ cấp, chị cũng bương chaỉ làm đủ nghề: may khoán, trông con nít, làm thợ assembly...vừa lo cho con để nó tập trung vào việc học.  Cháu gaí đã khôn trước tuôỉ, biết thương mẹ, hiểu hoàn cảnh của cha, quyết chí làm vui lòng mẹ.  Cháu đã xong bằng B.S. về môn Hóa và được nhận vào khoa Dược của Đaị học Nebraska. Còn một năm nữa sẽ ra trường và quay laị vơí mẹ ở Cali.

Nghe lơì  cô kể cứ như là chuyện thần tiên, nhưng ở Mỹ những gương thành đạt vì có chí không phaỉ là hiếm. Cuôí cuộc điện đàm, thấy cô vui, tự nhiên như một ngươì anh, tôi bỗng hoỉ cô về chuyện riêng tư.

"Sao, chuyện riêng tư của cô X. có gì thay đôỉ không" Tôi muốn noí thế nào chẳng có ngươì làm phiền""

Cô cươì qua điện thoaị, giọng cươì rất hồn nhiên của một góa phụ như biết mình còn nhan sắc nhưng thỏa lòng không muốn đi bước nữa. Cô trả lơì tôi:

"Em "già" rôì anh ơi! Em làm phiền ngươì ta thì có.  Thưa thiệt vơí anh, thấy anh H. thương em quá, nên tim em không để ai chen vô được nữa. Anh nhớ anh K. không" cả anh B. nữa. (hai ngươì này bạn của H., một còn độc thân lúc ra traị, một vợ bỏ khi cô vợ vượt biên qua Mỹ trước). Noí cho ngay, maỉ lo cho cháu, em không còn thì giờ để nghĩ đến ai...(laị cươì)...Hay anh chị làm mai cho em đi!"

Tôi biết câu noí vuốt chỉ là câu noí vui.  Tôi nhắc laị hôì đó H. đâu muốn làm khổ ai, taị cô tình nguyện chịu "khổ" thì bây giờ ráng chịu. (laị có tiếng cươì đầu giây bên kia)

Kết thúc câu chuyện điện thoaị, vợ chồng tôi cảm thấy mừng vì ở chi H. như đã có sự thay đôỉ lạ kỳ.  Nhớ laị hôì H. nằm ở nhà thương Chợ Rẫy, tuị tôi có dịp vô thăm thường xuyên và có một ấn tượng khá sâu sắc về ngươì vợ trẻ của anh.  Khác vơí những ngươí vợ, ngươì yêu của các phi công thường đậm nét sắc sảo, pha chút tinh nghịch, lãng mạn của các cô gaí thành phố; ngươì thiếu phụ này có khuôn mặt dù không trang điểm, laị traỉ qua những năm tháng đơị chờ, nhưng vẫn  đẹp thùy mị, vừa mang tính chân chất của một cô gaí miền cát trắng, laị vừa kín đáo trong ánh mắt ẩn buồn , âm thầm chấp nhận những ngang traí đổ xuống đơì mình.

Nhưng quả Trơì không để ai phaỉ chịu đựng quá sức. Thơì gian như một liều thuốc chữa lành các vết thương lòng và bôi xóa đi các nghịch cảnh của cuộc sống.  Tôi như hình dung được gương mặt hôì sinh của chị, ngươì đàn bà sinh ra để làm vợ, luôn sống có thủy, có chung, biết trân quý các môí quan hệ và giúp đỡ của bạn bè và đặc biệt biết ơn về lòng nhân đạo, tính bao dung của ngươì Mỹ, trong đó anh John có thể coi như biểu tượng. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 862,354,980
Phi trường quốc tế Los Angeles mà người ta vẫn gọi tắt là LAX vào một buổi sáng thứ bảy có đông hành khách ngồi chờ ở những hàng ghế trước các cổng lên máy bay được đánh số theo thứ tự. Mặc dù California là thành phố đa số người Mỹ gốc châu Á chọn định cư vì có khí hậu ấm áp tương tự khí hậu Dalat của Việt Nam, nhưng tại
Chuyến bay từ Paris tới Houston mất 9.25 phút. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên hàng không báo hiệu phi cơ hạ cánh vào lúc 4 g ngày thứ bảy 20/5/2006. Thọ chận một nam tiếp viên, giọng cố ý nhỏ nhẹ: - Ông làm ơn lấy dùm tôi những bức tranh tôi đã gởi vào cabine đặc biệt. - Rất tiếc tôi không giúp bà được. Trước khi xuống bà hỏi những
Tác giả Ai Cơ Hoàng Thịnh là một nhà giáo tại tiểu bang Victoria, Úc. Bà là người đã vận động đưa được tiếng Việt vào chính khoá và chương trình thi Tú Tài Úc, từ 1983 tới nay; Đã được Úc vinh danh Citizen of the Year 1994 tại Thành phố Footscray Teacher of the Year 1997 tại tiểu bang Victoria.
Vài năm nữa tôi sắp bước vào thời kỳ thất thập cổ lai hi. Đời người đi qua mau như thế tưởng được yên, chẳng ngờ chuyện nhân tình thế thái cứ quanh quẩn và tôi lại tiếp tục bị quấy rầy. Năm 1975 người Việt miền Nam đã mất những kỷ niệm quá khứ để ra đi, chỉ đem theo với mình tinh thần văn hoá dân tộc, trong đó ngôn ngữ
Trước khi vào câu chuyện xin được nói sơ qua về Maya Lin, tác giả của Bức Tường đá đen ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn, ghi danh các chiến sĩ Hoa Kỳ chết trong chiến tranh Việt Nam. Sinh năm 1959 tại thành phố Athens, tiểu bang Ohio, Maya Lin gây được sự chú ý của công chúng khi cô còn là một sinh viên 23 tuổi ở năm cuối Đại Học Yale
Thứ Sáu trước, tôi đang đi làm thì bà xã tôi gọi điện thoại, dặn tôi trước khi về thì ghé chợ ABC trên Bolsa mua cho bà ít bánh tráng để làm chả giò. Lúc đó khoảng bốn giờ chiều, nên tôi vội vã chạy vào chợ mua cho lẹ, để tránh cảnh kẹt xe freeway trên đường về nhà. Đang lúc chờ tính tiền ở quầy, thì có một ông tóc bạc phơ
Gắn liền với hình ảnh của làng mạc êm đềm tại miền bắc Việt Nam xa xôi, nơi tôi chưa một lần đến thăm, là bóng dáng của những cây đa to lớn sừng sửng đứng hiên ngang ở đâu đó. Ngày xưa, hình như sau mỗi phiên chợ xa về, các bà các cô thường hay dừng chân nghỉ ngơi đôi chút ở dưới những gốc đa như thế này. Những người nông dân
Bữa nay nữa là đúng 54 ngày tôi theo chồng về Mỹ. Mặc dù nước Mỹ đối với người Việt Nam chúng tôi không còn lạ lẫm gì cho lắm so với thời cuộc bây giờ, vậy mà tôi vẫn cứ ngỡ ngàng theo từng ngày tháng với cuộc sống mới mẻ nơi này. Tôi đang sống cùng chồng ở Jefferson, Oregan. Jefferson gần giống như Đà Lạt nhưng
1. Hướng Về Tương Lai Ngày từ mẫu đã trôi qua. Không khí ngày từ mẫu "Mother's day" vẫn còn phảng phất đâu đây. Nhân ngày này tôi hồi tưởng lại ngày từ mẫu hơn nửa thế kỷ đã qua. Mẹ tôi nay đã ra người thiên cổ. Nhớ tới bà tôi cảm động bùi ngùi thương tiếc. Bà ra đi trút được gánh nặng ngàn cân trên đôi vai bà với 7 cậu con
Pharmacy ngày thứ Bảy khách không đông lắm, nhưng cứ đều đều, đều đều, 10, 15 phút lại có người đem toa đến hoặc đến để trả tiền, lấy thuốc. Hôm nay mấy người cashier của Pharmacy xin nghỉ hết, thành ra ông manager của tiệm đưa một cô bé cashier ở phía trên xuống để phụ với Kim. Bảng tên trên áo cô bé có chữ Lillian
Nhạc sĩ Cung Tiến