Hôm nay,  

Dòng Sông Chết

13/03/200800:00:00(Xem: 137515)

Người viết: Nguyễn Đức Quang
Bài số 2247 -1624-24-vb5130308

Tác giả Nguyễn Đức Quang là cư dân thành  phố Renton, tiểu bang Washington. Xin đừng lầm với nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang tại Cali. Hơn một lần, ông Quang đã góp bài cho Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ. Bài mới của ông lần này là bài viết về hai dòng sông. Một đã chết là sông Black River gần thị trấn Seattle. Và hai, là về dòng sông Hương mà tác giả yêu quí đang trong tình trạng ngô độc nặng.

Trước đây, tôi chưa bao giờ thấy hoặc nghe ai nói có một dòng sông chết. Trong quyển “Sài Gòn Năm Xưa” của cụ Vương Hồng Sển có một chương viết về những dòng sông đổi dòng, những con rạch bị lấp.
Tại thành phố Renton, nơi tôi đang cư trú có một dòng sông không còn nữa: Dòng sông Black River. Dòng sông mang tên định mệnh Black nên số phận của nó hẩm hiu, buồn thảm.
BLACK RIVER
Sông Black River đã có từ hàng ngàn năm. Nhìn những bức ảnh đen trắng chụp vào thế kỷ 19 mờ mờ, ảo ảo cho ta thấy cảnh hoang sơ của thời kỳ vắng bóng người. Một dòng sông thường bắt nguồn từ miền Cao Nguyên hoặc từ vùng núi cao, nhưng sông Black River bắt nguồn từ một hồ lớn mang tên Washington. Trong bài viết REQUIEM FOR A RIVER trên tuần báo The Weekly ngày 10/16 - 12/22/85, ông David M. Buerge cho biết về sự hình thành của sông Black River như sau:
5700 năm trước một trận địa chấn lớn xẩy ra. Tiếp theo đó, ngọn của núi Rainier bị xụp đổ. Một trận bão gồm bùn, đá, băng ầm ầm đổ xuống sườn núi phía bắc. Bùn, đá, băng đổ vào các thung lũng của vùng cổ xưa Puyallup and White Rivers, và tràn vào vịnh Puget Sound. Ở vào thời điểm đó, vịnh Puget Sound vươn tới phía đông của con kênh hiện tại và chiếm cả vùng đầm của thung lũng Green River và hồ Washington. Suối bùn và đá hợp với phù sa của những dòng sông đã đẩy lùi vịnh Puget Sound về biên giới hiện nay. Phù sa bồi vào đồi Earlington thuộc thị trấn Renton, nằm phía nam của đồi Beacon thuộc thành phố Seattle, đã ngăn nước chảy vào hồ Washington. Những con rạch cạn dần, không còn nước chẩy vào hồ. Sự kiện địa chấn xảy ra, nước hồ Washington và sông Cedar đã phối hợp để tạo thành một dòng sông đổ vào sông White River và chẩy ra vịnh Puget Sound. Dòng sông ấy mang tên Black River.
Sông Black River là con sông kỳ lạ. Nó còn có tên khác là Sông Hai Cửa Khẩu - Two Mouth-. Một cửa chẩy vô sông White River nay có tên là Green River. Đến mùa xuân, Black River có một cửa khẩu khác. Ông David M. Buerge giải thích: Cánh đồng chứa nước lụt của sông Black River quá phẳng đến nỗi mỗi năm vào mùa xuân, nước sông White River tràn vào cánh đồng chứa nưóc lụt của Black River và đẩy ngược dòng nước chẩy ngược lại vào hồ Washington. Hồ Washington là cửa khẩu thứ hai trong những trận lụt mùa xuân. Sư kiện này chỉ kéo dài khoảng một tháng.
Black River là dòng sông êm đềm, không rộng và ngắn, chỉ dài chừng hơn hai chục cây số. Ông Clarence Dullahaut đến cư trú tại Renton năm 1903 trả lời phỏng vấn được ghi lại trong bài viết A RIVER FORGOTTEN của ông Louis T. Corsaletti, ông nói: "Black River là con sông đẹp, dễ thương và êm đềm. Tôi vẫn nhớ những ngày hạnh phúc được bơi lôi trong thời niên thiếu. Có khúc sông rộng dành cho thanh niên và khúc sông nhỏ hơn dành cho thiếu niên. Trẻ thơ thì tắm ở khúc sông ngày nay là đại lộ số 2."
Black River là dòng sông ngắn, không rộng, nhưng Black River và lòng chảo đã cung cấp tài nguyên, thực phẩm, đất đai mầu mỡ và phương tiện chuyển vận hàng hóa cho con người không phải là nhỏ.
CƯ DÂN CỦA BLACK RIVER
Những con vật đến dòng sông Black River trước con người. Cá Hồi là loài cá được biết đến nhiều nhất tại sông Black Rivers và hầu hết những con sông tại miền Tây Bắc Hoa Kỳ. Cá Hồi trở về nơi chào đời từ vịnh Puget Sound của biển Thái Bình Dương để sinh nở. Một luồng đi ngược dòng White River nay đổi tên là Green River. Một nguồn rẽ vào sông Black River để đến hồ Washington hoặc ngược dòng sông Cedar River. Có cá thì có những con vật ăn cá. Chim Heron, cư dân bên bờ sông Black River, còn tồn tại đến ngày nay và đang được thành phố bảo vệ như một loài chim quí hiếm.
Sau cá và chim, tiếp đến là con người. Đầu tiên là những người da đỏ bản xứ, thuộc bộ tộc Duwamish, đến định cư hai bên bờ sông Black River và Cedar River. Họ bắt cá, trông khoai, hái trái blackberry để ăn và phơi khô làm bánh. Người da đỏ đã đến cư ngụ bên bờ sông Black River hơn 1400 năm. Năm 1916 họ vẫn còn sinh sống bên bờ Black River.
 Di dân da trắng đến vùng Tây Bắc Hoa Kỳ từ đầu năm 1800. Người da trắng đầu tiên tới định cư và lập nghiệp bên dòng sông Black River là ông Henry Tobin. Năm 1853 ông chèo thuyền cùng với vợ bà Diana Tobin ngược dòng sông Duwamish và Black River. Ông bà Tobin lập ra một trại mộc bên bờ sông Black River. Rừng cây phong phú,sum sê và sức nước để chạy máy xưởng cưa đã giúp ông Tobin có phương tiện khai thác gỗ và đem những sản phẩm của ông đến thị trường Seattle. Sự thành công của ông bà Tobin đã quyến rũ những di dân da trắng đến vùng này. Năm 1854, Dr. R.H. Bigelow, người hang xóm của ông Tobin, tìm thấy quặng than trong trang trại của ông. Những năm sau đó, người ta tìm thấy những mỏ than ở những vùng đồi quanh Renton. Người da trắng đến vùng Black River và Cedar River càng ngày càng đông. Người thành công nhất là Captain William Renton. Ông Renton là người kinh doanh nghành gỗ nổi tiếng, ông đã mua những mỏ than của ông Smithers và thành lập Renton Coal Company. Năm 1875, người da trắng tại vùng này thành lập một thành phố. Người ta đã lấy tên của ông Captain William Renton (1818-1891) để đặt tên cho thành phố: RENTON.
Chiến tranh giữa người bản xứ Da Đỏ và di dân Da Trắng
Lịch sử kể lại rằng những năm đầu tiên người di dân da trắng đến vùng Tây Bắc Hoa Kỳ, sự giao thiệp của họ với người da đỏ bản xứ là bình thường. Người da đỏ trong vùng rất thích những dụng cụ của người da trắng đem đến cho họ. Người da đỏ cảm thấy thoải mái với nhóm người da trắng ít ỏi. Những năm sau đó, người da trắng đến vùng này càng ngày càng đông thì quan hệ của họ với người da đỏ bản xứ cũng thay đổi. Sự kiện gia tăng đông đảo người da trắng trong vùng đã quấy nhiễu đời sống cổ truyền của người dân bản xứ. Người da trắng thèm muốn đất đai của dân bản xứ để khai thác tài nguyên, lập nhà máy. Chiến tranh giữa dân bản xứ và di dân da trắng là điều không thể tránh khỏi. Chiến tranh đã xẩy ra vào năm 1855. Trong trận chiến tranh lâu dài, người da đỏ đã tiêu hủy nhà máy của ông Tobin. Ông bà Tobin phải chạy trốn đến nơi an toàn. Nhưng tất cả công nhân của ông không chạy kịp đều bị người da đỏ giết chết. Ông Tobin chết bệnh năm 1857. Người da đỏ thua trận và phải ký một thỏa ước với chính quyền Hoa Kỳ. Theo thỏa ước, người da đỏ phải miễn cưỡng sống trong những vùng tập trung do người da trắng chỉ định. Người da trắng theo chân đoàn quân chiến thắng đến cư ngụ càng ngày càng đông. Người da đỏ bản xứ trở thành thiểu số và cam chịu sống trong những khu tập trung.
NGUYÊN NHÂN CÁI CHẾT CỦA SÔNG BLACK RIVER
Không có quyển sách nào viết về dòng sông Black River, chỉ có vài bài viết hiếm hoi viết về con sông này mà tôi tìm kiếm được trên các mạng internet và trong thư viện Renton. Tất cả các bài viết đều nói nguyên nhân cái chết của dòng sông Black River là sự hoàn thành con kênh đào Lake Washington Ship Canal. Theo tôi có một nguyên nhân thứ hai nữa gây ra cái chết của dòng sông Black River.
Nguyên nhân thứ nhất


Năm 1911, thành phố Renton xẩy ra một trận lụt lớn. Sáng sớm Chủ Nhật, ngày 11 tháng 11, năm 1911, đập rộng 11 square miles trên thượng nguồn sông Cedar River bị vỡ một phần. Khi được tin đập bị vỡ, chuông nhà thờ khắp vùng đã đổ liên hồi và còi báo động ở vùng mỏ than hụ vang làm mọi ngưòi rưng tóc gáy. Người ta không biết chính xác nguyên nhân gây lụt. Người ta chỉ đoán rằng trận lụt do những trận tuyết lớn của năm trước và mưa nhiều trong năm 1911. Bài báo cũng không nói đến sự thiệt hại về nhân mạng và vật chất do trận lụt gây ra. Nhìn những tấm hình chụp cảnh lụt lôi năm 1911 tại Renton cho thấy trận lụt chẳng to lớn gì so với những trận lụt tại miền Trung năm 1950, 1964. Tôi chắc chắn không có thiệt hại nhân mạng. Trận lụt chỉ gây thiệt hại không đáng kể về vật chất. Trong một bản tin nói rằng: Trận lụt năm 1911 đã gây hư hại cho đường ống dẫn nước uống từ thượng nguồn Cedar River về Seattle trong khoảng một tuần khiến cho cư dân Seattle thiếu nước sạch để uống và nấu ăn. Bọn con buôn đã bán nước uống với giá 5 cent một gallon. Nhiều gia đình đã phải hứng nước mưa từ máng xối và đun sôi để uống. Một gia đình cần khoảng năm gallon nước uống một ngày thì số tiền 5 cents một gallon không lớn với ngày nay, nhưng văo năm 1911 tốn 25 cents một ngày cho nước uống là một khoản tiền lớn.
Năm 1912 thị trấn Renton đào một con kênh dài 2000 foot, rộng 80 foot để thay đổi dòng chẩy của sông Cedar River đi về phía bắc và chẩy thẳng vào hồ Washington với hy vọng tránh được nạn lụt xẩy ra trong tương lai. Từ đấy sông Black River mất nguồn cung cấp nước của sông Cedar.
Nguyên nhân thứ hai
Lý do chính làm chết sông Black River là do người ta đào con kinh Lake Washington Ship Canal. Thomas Mercer là người đầu tiên thấy được sự cần thiết có con đường thủy nối liền hồ Washington với vịnh Puget South của biển Thái Bình. Sau nhiều thập niên thảo luận, bàn cãi và tiếp theo sau nhiều kế hoạch của tư nhân thất bại, tướng Hiram M. Chittenden của U S Army Corps of Engineers tiến hành thực hiện chương trình đào kênh và tên ông sau đó được đặt cho những cửa nối vịnh Pudget Sound và Salmon Bay tại Ballard. Để hoàn thành con kênh Lake Washington Ship Canal, người ta phải đào hai con kênh: Một con kênh nối liền Salmon Bay và hồ Lake Union tại Fremont và một con kênh nối liền hồ Lake Union và hồ Washington tai Montlake. Người ta cũng phải xây bốn cầu cất tại Fremont, Ballard, University District và Montlake. Tàu lớn được phép đi qua kênh vào ngày mùng 4 tháng 7 năm 1917, nhưng tới năm 1934 kênh mới được chính thức công bố hoàn thành.
Năm 1917 là năm đầu tiên những con tàu lớn được phép đi qua kênh Lake Washington Ship Canal. Đến tận năm 1934 người ta mới tuyên bố kênh đào hoàn tất. Nhưng ngày 21 tháng mười năm 1916 là ngày con kênh được đào xong. Hồ Washington và vịnh Puget Sound đã được nối liền. Mực nước hồ Washington thấp xuống 9 feet. Sông Black không còn được hồ Washington cung cấp nước. Sông cạn dần trong vài ngày. Sông Black River qua đời vào mùa thu năm 1916.
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA  BLACK RIVER
Ông Dullahant kể lại những ngày cuối cùng của sông Black River như sau: Mực nước hồ Washington xuống thấp vào mùa thu năm 1916, cá Hồi chạy trốn. Hàng trăm cá Hồi bị kẹt lại trong vũng nước còn lại của lòng sông Black River.
Ông Joseph Moses, một thổ dân da đỏ Duwamish đã kể lại trong cuộc phỏng vấn với David Buerge rằng: Đó là một ngày buồn thảm cho người da trắng. Nước cạn dần, cạn dần cho đến khi những chiếc ca nô nằm phơi trên đất khô và không còn dòng sông Black River nữa. Dĩ nhiên, chỉ còn những vũng nước và những con cá bị kẹt lại vì không chạy thoát kịp ra sông Duwamish. Dân chúng sống xa hàng dậm đổ xô về sông Black River. Họ cười, reo hò và bắt cá. Những túi của họ đều đầy ắp cá. Đó là hình ảnh những ngày cuối cùng của sông Black River
NHỮNG GÌ CÒN LẠI SAU KHI DÒNG SÔNG KHÔNG CÒN NỮA
Hằng năm vào tháng 8, Thị trấn Renton tổ chức một ngày hội có tên là RENTON RIVER DAYS. Ngày hội không phải để tưởng nhớ con sông Black River như tôi nghĩ. Bà Quản Thủ Thư Viện Renton nói với tôi: "Năm 1935, thị trấn Renton tổ chức ngày hội RENTON AIR FAIR để kỷ niệm một sự kiện lịch sử: Trong năm 1935 ông Wiley Post và ông Will Rogers đã hạ cánh chiếc thủy phi cơ xuống cuối phi trường Renton trên Lake Washington. Sau đó, hai ông cất cánh từ hồ để bay tới Alaska và không bao giờ người ta thấy hai ông nữa. Năm 1986 trong một cuộc thăm dò ý kiến đã cho thấy rằng người dân Renton muốn một tên khác cho ngày hội của thành phố. Thời gian đó thành phố hoàn thành Coulon Beach Park và Cedar River Trail. Lễ hội thành phố được tổ chức tại Liberty Park trên dòng sông Cedar. Người dân Renton đã nói rằng: Tại sao không gọi lễ hội của chúng ta la RENTON RIVER DAYS để khẳng định rằng Renton là một cộng đồng gia đình tốt đẹp. Từ năm 1986 RENTON RIVER DAYS đã thay tên RENTON AIR FAIR." Ngày nay rất ít người còn nhớ đến con sông Black River. Những dấu vết còn lại của sông Black River ở Renton và trong con người Renton không nhiều. Black River đã qua đời gần một thế kỷ. Những gì còn sót lại sau đây gợi nhớ lại trước đây có một dòng sông tên Black River tại Renton.
1. Black River Riparian Forest là khu rừng được thành lập vào năm 1985 để bảo vệ những tổ chim blue heron và eagle. Khu rừng rông 93 mẫu. Giữa khu rừng có một hồ nhỏ, di tích cuối cùng còn lại của con sông Black River. Hiện nay, khu rừng này cũng không được yên ổn. Chủ đất, gia đình Merlino, đã thuê nhà thầu Sunset Bluff xây 65 căn nhà bên cạnh đồi. Những người sáng lập khu rừng cho rằng việc xây nhà sẽ đe dọa những tổ chim blue heron. Thành phố và những người xây dựng thì cho rằng việc xây dựng không đe doạ gì đến những tổ chim blue heron. Vụ tranh chấp đến nay chưa được giải quyết. Nhưng tôi chắc  trong tương lai 65 căn hộ cũng được xây và chịu những điều kiện hạn chế nào đó để thỏa mãn phần nào đòi hỏi của những nhà hoạt động bảo vệ môi trường đưa ra: Xây một tường cao ít nhất 6 feet chung quanh khu nhà, nhà ở và khu giải trí phải xa Black River Riparian Forest ít nhất 100 feet.
  2. Trường trung học Black River
 Black River High School là một trường trung học nhỏ.
3. Bức hình trên vải treo ở trung tâm thị trấn Renton
Đây là bức hình chụp sông Black River vào năm 1900
 Bức hình trên được chụp lại và phóng lớn trên vải dệt bằng sợi ny lông rộng 10 mét, dài 12 mét. Bức hình được treo tại một bức tường của một văn phòng trong thị trấn Renton. Bức hình được treo ở một nơi không trang trọng, không gắn chặt vào tường, không được che chở để tránh mưa, tránh nắng. Bức hình đã bị phai màu và một góc của bức hình có một mảng rách. Những ngày mưa gió, bức hình đong đưa, chao đảo khiến tôi ái ngại cho số phận của bức hình rồi cũng hẩm hiu như số phận của dòng sông Black River.
4. Black River Community Service Center (Renton)

5. Black River Inn
Black River Inn
111 Airport Way
Renton, WA 98055
Tel: (425) 255-2221

Sau gần một thế kỷ dòng Black River nhỏ bé qua đời, có bao nhiêu người dân Renton còn nhớ sông Black River" Những ngày nắng hiếm hoi ở nơi tôi trú ngụ, người dân Renton cũng rất hiếm khi được nhìn thấy những con chim Blue Herron và Eagle giang cánh rộng trên bầu trời. Học trò vẫn đến trường Black River. Ít ỏi người dân Renton vẫn tới Black River Community Service Center hoặc ăn tại quán trọ nghèo nàn Black River Inn.
Vẫn còn một bóng mờ mờ của nàng công chúa sầu muộn mang tên Black River ở Renton.
NGUYỄN ĐỨC QUANG

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 863,230,939
Con may mắn được mẹ sinh con tại Mỹ, tỉnh Alexandria bang Virginia . Mẹ dạy con nói tiếng Việt từ thuở còn thơ. Mẹ nấu cơm Việt cho con ăn. Mẹ kể lại chuyện xưa, ông bà ngoại dạy dỗ mẹ chu đáo nên ngày nay nhờ kinh nghiệm đó mẹ rèn luyện chúng con nên người tốt. Mặc dầu sanh đẻ tại Mỹ nhưng con lúc nào cũng nghĩ tới
Chiều nay trên đường từ sở về nhà, con đã chứng kiến một tai nạn giao thông khá nghiêm trọng. Ba xe cứu thương đến vây quanh làm lưu thông bị tắc nghẽn. Khi đi ngang qua hiện trường, con đã nhìn thấy các nhân viên cứu thương đang cố gắng cưa những mảnh sắt móp méo để lấy người bị thương đang kẹt trong xe
Tác giả là một nhân viên ngân hàng, cư trú và làm việc tại Seattle , tiểu bang Washington . Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà, “Con Đi Trường Học...” là thư của một bà mẹ độc thân viết cho con gái đi thực tập tại một nước châu Phi, đã được phổ biến ngày 13-1-2006 với bút hiệu Hồng Ngọc-Vương. Bài viết thứ hai
Mẹ ơi! Biết bao giờ con mới được gọi lại tiếng "Mẹ" ngọt-ngào đầy yêu-thương này! Ngày Mẹ còn sống, gọi tiếng Mẹ đã thấy ấm lòng, thấy chứa-chan tình-cảm. Bây giờ Mẹ không còn nữa, tiếng Mẹ làm con xót-xa tận cõi-lòng, chẳng bao giờ con còn có dịp ngồi bên Mẹ, nắm lấy tay Mẹ rồi nói
Những ngày đầu bà Bẩy vui vẻ đi đây đi đó. Thấy gì cũng lạ, cũng đẹp, nhưng cái cảm giác lớn nhứt bà có là thấy mình   an toàn.   Không bị hạch xách, không bị hỏi han, điều tra, điều này điều nọ, bị sợ sệt khi phải đến cơ quan công quyền mà bà đã gặp phải ngày xưa.... Trong bữa ăn tại nhà con gái, có đông đủ
Bởi vì Việt Kiều chẳng mấy ai quan tâm đến những điều ấy, có người không chịu ở nhà mà ra ở khách sạn   cho thoải mái và chẳng muốn làm phiền đến ai. Họ muốn thăm ai thì tự nhiên đến nhà, ăn uống thì đơn giản không cầu kỳ, chẳng cần cao lương mỹ vị gì hết, có rất nhiều người xà vào quán hàng trong nhà lồng
Tôi mơ mơ màng màng nheo mắt nhìn chiếc đồng hồ bên cạnh giường ngủ, và vội vàng ngồi bật lên vì đã gần 12 giờ trưa. Đầu óc tôi vẫn còn choáng váng và khó chịu lắm, nhưng nghĩ tới mảnh giấy mẹ để trên gối, tôi chạy vội ra nhà bếp không kịp đánh răng rửa mặt. Tối hôm qua, phải nói là sáng nay mới đúng
Con không dám đi cửa trước, con vòng ra cửa sau. Mùa Xuân đã trở lại, những củ   tulip con trồng trên luống mùa thu năm nào trước khi bỏ đi đã mọc lên và ra hoa, những bông hoa tulip mà cha yêu. Mọi thứ trông buồn bã và tàn tạ, chỉ có những bông hoa tulip rực rỡ. Mầu đỏ và vàng, xen lẫn với những mầu hồng nhạt
Vì nhà tôi khá xa trường, tôi luôn cố gắng căn giờ để dù có kẹt xe cũng tới trường sớm ít nhất nửa giờ. Tôi muốn tránh cho mình tình trạng phải phóng xe vội vã trong nỗi hồi hộp lo âu sợ trễ; hoặc hớt hải tới trường vừa sát giờ dạy; hoặc tệ hơn, tới sau khi chuông vào lớp đã reo! Kinh nghiệm cho tôi biết, chính trong ít phút
Vận nước nổi trôi, tôi đến Hoa kỳ vào tháng chín năm 1975.   Ngồi trên xe từ phi trường về nhà trọ, tôi thấy ngay cái không khí ở đây khác với không khí tại những nơi tôi đã đi qua.   Nó có phần tươi mát hơn, khoáng đạt hơn.   Không phải là một người trong ngành y khoa, tôi không biết cái gì đã kích thích ngũ quan
Nhạc sĩ Cung Tiến