Hôm nay,  

Tìm Lại Ân Nhân

28/11/200800:00:00(Xem: 178647)

Tìm Lại Ân Nhân

Tác giả: Nguyễn Duy An
Bài số 2468-16208545-v5271108

Nguyễn Duy An  là người Á châu đầu tiên đảm nhiệm chức vụ Senior Vice President của National Geographic, tổ chức văn hoá khoa học lớn nhâát thế giới. Năm 2006, ông là tác giả nhận giải Chung Kết  Viết Về Nước Mỹ. Bài viết nhân lễ tạ ơn 2008  kể về chuyến bay đầu tiên sang Mỹ và "vị ân nhân số một" mà ông đã cố công tìm  kiếm từ 24 năm qua. Mong sau  này, chuyện gặp lại ân nhân sẽ được ông kể tiếp.

***
Bà đại sứ Dougan gởi lời nhắn trong điện thoại muốn gặp tôi tại quán cà phê Caribou ở góc đường L ... 17 vào lúc 3 giờ chiều Thứ Sáu sau Lễ Tạ Ơn, để kiểm chứng một vài chi tiết về một vị ân nhân tôi đang tìm kiếm từ hơn 20 năm nay vì bà ấy đã tìm được một vài manh mối.
Tôi quen bà đại sứ Dougan từ cuối năm 2006, lúc bà ấy chuẩn bị thực hiện chương trình "Next Gen Awards" cho giới trẻ ở Việt Nam vào năm 2007, và qua sự quen biết với ban lãnh đạo của National Geographic, bà ấy đã mời tôi làm thành viên trong ban cố vấn của chương trình. "Cuộc thi NextGen [Next Generation]được tổ chức hàng năm nhằm khuyến khích, dẫn dắt, trao thưởng cho thế hệ trẻ tài năng có ý tưởng sáng tạo và những đề án thực tiễn trong việc sử dụng hiệu quả điện thoại di động nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống trong cộng đồng và hơn thế nữa..."
Bà đại sứ Dougan chỉ muốn tôi gọi bà là Diana, nhưng vì trong văn bản chính thức người ta vẫn giới thiệu bà là "The Honorable Diana Lady Dougan" nên lúc nào tôi cũng gọi bà là Ambassador Diana hoặc Ambassador Dougan cho phải phép. Tôi gọi thế vì bà đã nhận được tước vị "the permanent rank of Ambassador" và tôi cũng không biết cái chức đó trong tiếng Việt là gì nên "tạm dịch" là đại sứ mặc dầu bà đã về hưu và cũng chưa bao giờ làm đại sứ chính thức của Hoa Kỳ tại bất cứ quốc gia nào trên thế giới.
Sau khi làm việc chung với nhau một thời gian, tôi biết bà ta quen rất nhiều nhân viên kỳ cựu đã từng làm trong ngành Ngoại Giao nên chính thức nhờ bà ấy tìm lại một vị ân nhân đã cho tôi 20 Dollars trên chuyến bay từ Tokyo tới Seattle vào ngày 1 tháng 8 năm 1984.
Mặc dầu tôi đã ra sức tìm kiếm từ bao nhiêu năm nay, kể cả việc liên hệ với một vài người quen biết đang làm việc ở Bộ Ngoại Giao, nhắn tin trên internet và bulletin của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ nhưng vì tôi chỉ có một vài chi tiết rất mơ hồ về vị ân nhân của mình nên cuộc tìm kiếm đã không mang lại kết quả gì. Ngoài những chi tiết ở trên, tôi chỉ biết vị ân nhân ấy tên là Barbara (tôi đã quá khù khờ nên không hỏi tên họ) và năm 1984 bà Barbara đang làm việc trong văn phòng một tòa đại sứ nào đó của Hoa Kỳ ở Á Châu! Khi nghe tôi kể về câu chuyện hy hữu đã xẩy ra cho tôi trong ngày đầu tiên đặt chân tới Mỹ và những cố gắng của tôi để tìm lại vị ân nhân đó, bà đại sứ Dougan đã thốt lên "đúng là mò kim đáy biển" nhưng cũng hứa sẽ cố gắng hết sức và hy vọng sẽ tìm được vì "lòng thành" của tôi.
*
Ngày đó... Tôi được bầu làm trưởng đoàn hướng dẫn gần 200 người tỵ nạn Việt Nam từ Galang và Hong Kong đáp chuyến bay của hãng Northwest Airlines rời Tokyo sang Seattle bắt đầu cuộc sống mới trên đất Mỹ. Tôi được chọn vì "đồng bào" biết tôi đã từng làm thông dịch viên cho văn phòng Cao Uỷ ở trại tỵ nạn Galang, Indonesia.
Tất cả chúng tôi được lên máy bay trước những hành khách bình thường, và ngồi gần hết phía cuối máy bay, nhưng cho tới khi máy bay chuẩn bị cất cánh, bà con ta vẫn cãi nhau chí chóe vì chỗ ngồi lộn xộn, kẻ thích gần cửa sổ, người khác lại muốn gần lối đi hay dăm ba người bạn muốn được ngồi bên nhau... Nhân viên phi hành đoàn, sau nhiều lần cố gắng vẫn không ổn định được tình hình, đã nhờ tôi dùng hệ thống âm thanh trên máy bay nói tiếng Việt giúp họ giải quyết vấn đề. Tôi cầm máy nói vài lời xin lỗi hành khách trên máy bay bằng tiếng Anh, rồi nói lớn bằng tiếng Việt:
- Tôi xin tất cả mọi người ngồi xuống ghế, cài dây an toàn. Ai không muốn ngồi tại chỗ của mình, xin bước lên đây, tôi sẽ dẫn ra đi chuyến sau. Chúng ta không thể đánh mất danh dự của người Việt Nam chỉ vì một chỗ ngồi trên máy bay.
Như một phép lạ, cả mấy trăm người đều im bặt, chỉ còn nghe tiếng lách cách cài dây an toàn... Tất cả hành khách trên máy bay và phi hành đoàn đều trố mắt ngạc nhiên nhìn tôi. Tôi nói cám ơn rồi trở về chỗ ngồi. Trớ trêu thay, chỗ ngồi của tôi đã bị chiếm mất! Mấy cô chiêu đãi viên cũng đi lên đi xuống, nhìn trước ngó sau nhưng không tìm thấy ghế trống nào ở phần dành cho người tỵ nạn nên đành dẫn tôi lên ngồi một ghế trống ở phía trên, bên cạnh một phụ nữ trung niên với một gương mặt rất phúc hậu... Sau khi tôi cài dây an toàn, bà ta vừa bắt tay tôi vừa nói:
- Tôi là Barbara. Anh bạn trẻ tên gì"
- Tôi là Nguyễn Duy-An.


Bà ta lặp lại tên tôi vài lần rồi hỏi tôi xem bà ấy phát âm có đúng không. Tôi thành thật nói không. Bà ấy cười lớn:
- Tiếng Việt Nam khó đọc quá. Tôi chịu thua. Thôi, cứ gọi là "anh bạn trẻ" nhé.
- Tuỳ bà.
- Cám ơn. Mà này, anh bạn trẻ đang làm việc cho Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, phải không"
- Dạ không. Tôi chỉ là một người tỵ nạn đang trên đường đi định cư tại Mỹ.
- Thế hả" Tôi thấy trên áo anh có in phù hiệu Liên Hiệp Quốc và mấy chữ UNHCR (United Nations High Commissioner for Refugees).
- Đây chỉ là món quà của Cao Uỷ cho những người làm việc thiện nguyện trong trại tỵ nạn thôi.
- Mà này, anh bạn trẻ... Lúc nãy anh nói gì mà tất cả đều im lặng tuân theo vậy" Mấy người tiếp viên hàng không sắp xếp cả tiếng đồng hồ không xong, còn anh chỉ nói một câu thì mọi việc đều êm. Anh bạn trẻ giỏi quá.
- Tôi có tài giỏi gì đâu. Tôi chỉ nhắc cho họ đừng làm mất danh dự dân tộc của mình vì tranh dành chỗ ngồi trên máy bay.
Chúng tôi còn nói nhiều chuyện trong suốt chuyến bay dài qua đêm, và tôi được biết bà Barbara là nhân viên ngoại giao làm việc ở Á Châu đang trên đường về Mỹ nghỉ hè. Vừa tới Seattle, trước khi xuống máy bay, bà Barbara trao cho tôi một tờ giấy 20 Dollars, nói nhỏ:
- Cứ cầm lấy, đừng ngại nhé anh bạn trẻ. Đường về Miền Đông còn dài, biết đâu anh cần một ít để mua đồ ăn thức uống trong lúc chờ đổi chuyến bay.
Tôi chưa kịp nói lời cám ơn thì bà ấy đã bước vội ra phía trước như sợ tôi sẽ từ chối.
Tôi theo đoàn người tỵ nạn đi ra theo lối dành riêng để xếp hàng làm thủ tục giấy tờ định cư. Tôi là trưởng đoàn nên phải đứng ở cửa giúp "điểm danh" và "nhận diện" từng người vì có nhiều người trùng tên, trùng họ và danh sách đánh máy lại không có dấu tiếng Việt.
Mặc dầu máy bay đáp xuống phi trường Seattle lúc 10 giờ sáng nhưng mãi tới quá trưa tôi mới bước ra khỏi văn phòng của sở thuế vụ và di trú vì tôi là người cuối cùng trong đoàn.
Tôi bị trễ chuyến bay về Pittsburgh!
Nhân viên hãng United Airlines bảo tôi ngồi chờ họ sắp xếp cho đi chuyến sau. Tôi đến ngồi ở dãy ghế gần mấy cái máy bán thuốc lá, bánh kẹo, nước uống... ngắm ông đi qua bà đi lại. Tôi đói lắm vì lúc đó đã hơn 3 giờ chiều. Tôi để ý thấy người ta bỏ tiền vào máy, kéo một cái nhẹ để mua nước, kẹo sô-cô-la và có khi còn được thối lại mấy đồng tiền cắc. Tôi chờ lúc vắng người, rụt rè bỏ tờ giấy 20 Dollars bà Barbara cho sáng nay để mua thử mấy thỏi kẹo sô-cô-la nhưng máy không nhận. Tôi mua thử loong nước Coca-Cola cũng không được. Tôi vừa đẩy tiền vào, máy lại đẩy ra.
Vừa đói vừa khát, tôi ngồi "chửi thầm" con mẹ Mỹ già chơi đểu mình, giả ân giả nghĩa cho mình đồng bạc giả! Tôi chờ tới lúc có một cụ già tới mua thuốc lá, dò giẫm lại gần chìa tờ giấy 20 Dollars hỏi:
- Nhờ ông xem đây có phải là tiền "thật" hay không"
- Thật chứ. Sao cậu hỏi ngớ ngẩn thế"
- Tôi bỏ vào máy mua kẹo không được, mua nước nó cũng không nhận.
Cụ ấy cười lớn rồi giải thích:
- Cái máy này chỉ nhận tiền cắc hay giấy $1 hoặc $5 thôi. Để tôi giúp cho. Lần đầu tới Mỹ hả" Cậu cần gì"
- Tôi là người tỵ nạn Việt Nam hôm nay đi định cư ở Pittsburgh. Tôi tới đây từ sáng nhưng bị trễ chuyến bay. Tôi chỉ muốn mua ít kẹo Sô-co-la và lon nước Coca-Cola cho đỡ đói.
Ông cụ chẳng nói gì, bỏ tiền vào máy mua 3 thỏi kẹo Sô-cô-la và một lon nước trao cho tôi. Tôi đưa tiền ông ta không chịu lấy, chỉ cười cười bảo tôi:
- Có mấy chục xu thôi, đừng bận tâm. Nếu còn chờ lâu, cậu đi ra phía ngoài kia mua bánh mì mà ăn. Tôi phải chạy cho kịp chuyến bay. Chúc cậu may mắn.
Ông cụ đi rồi tôi mới hối hận đã trách oan bà Barbara. Chính lúc đó, tôi nhận ra giá trị đích thực của tấm lòng của bà ấy khi trao tờ giấy 20 Dollars cho một người xa lạ, và tôi cũng thấu hiểu ý nghĩa của câu nói "một miếng khi đói bằng một gói khi no!"

*
Đã bao nhiêu năm qua rồi, tôi vẫn miệt mài tìm kiếm vị ân nhân SỐ MỘT của tôi trên đường đi định cư tại Mỹ. Với tôi bây giờ, tờ giấy bạc 20 Dollars của bà Barbara đáng giá gấp trăm gấp ngàn lần giá trị đích thực của nó trên thị trường tài chánh. Tôi đã an cư lạc nghiệp nơi vùng đất mới và chỉ ước mơ được một lần kính cẩn nói lời cám ơn tới bà Barbara. Chính bà đã dạy cho tôi biết chia sẻ những gì mình có với những người kém may mắn dù quen biết hay không. Đó cũng chính là tâm tình của tôi mỗi lần mừng Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving).
Tôi hy vọng mùa Lễ Tạ Ơn năm nay bà đại sứ Dougan sẽ giúp tôi tìm lại được vị ân nhân tên là Barbara, một người đã từng làm việc trong văn phòng một tòa đại sứ nào đó của Hoa Kỳ ở Á Châu năm 1984. Tôi cầu xin được một lần mời bà đến thăm gia đình và nói cho bà biết rằng tất cả những gì tôi có được hôm nay cũng không giá trị bằng tờ giấy bạc 20 Dollars bà ấy đã cho tôi trên chuyến bay đưa tôi đến định cư nơi vùng đất mới Hoa Kỳ.
Nguyễn Duy-An
Thanksgiving 2008

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 857,798,127
Tác giả sanh năm 1943 tại Cân thơ - Bác sĩ thú y, giảng dạy tại Đại Hoc Cần thơ trước 75 - Cùng gia đình vượt biên năm 1980. Học lại và làm việc cho cơ quan Canadian Food Inspection Agency từ 1985 đến ngày hưu trí năm 2008. Bài đầu tiên Viết Về Nước Mỹ, Đất Lành Chim Đậu nhận giải Vinh Danh Tác giả năm 2007. Sau 10 năm tiếp tục góp bài cho Việt Báo, tác giả cho biết “Vì lý do sức khỏe bất ngờ, xin chào tạm biệt tất cả bạn đọc để tĩnh dưỡng. Và đây là bài viết cuối cùng của ông: Chuyện hai mùa Vu Lan 2016-2017, con trai lái xe hàng ngàn dặm về cùng bố lát gạch sân đậu xe và tu sửa ngôi nhà gia đình. Việt Báo Viết Về Nước Mỹ trân trọng cám ơn Bác sĩ Nguyễn Thượng Chánh. Kính chúc ông và gia đình an vui, mạnh khỏe.
Tác giả định cư tại Pháp nhưng thường lui tới với nước Mỹ, tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010. Họp mặt giải thưởng năm 2011, bà đã bay từ Paris sang California để nhận giải Vinh Danh Tác Giả -thường được gọi đùa là giải Á Hậu. Sau đây, thêm một bài mới của tác giả.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông đã nhận giải Vinh Danh VVNM 2016, đồng thời, cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng trên dưới một triệu người đọc. Bài mới của là một tự sự gợi nhớ nhiều kỷ niệm.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay.
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự VVNM từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Vừa nhận thêm giải danh dự VVNM năm 2017. Sau đây là bài mới của tác giả, vẫn với cách viết cẩn trọng, chu đáo, sống động.
Trước 1975, tác giả là một hạm trưởng hải quân VNCH, sau đó là 10 năm tù cộng sản, và định cư tại Mỹ theo diện H.O. Dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, ông đã nhận giải bán kết 2001, từ 9 năm qua đã là thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết, và vẫn tiếp tục góp bài mới.
Tác giả là một cây bút nữ, cư dân San Jose, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sang năm thứ 18 của giải thưởng, Lê Nguyễn Hằng nhận thêm giải Vinh Danh Tác Giả, với bài viết về “Ba Thế Hệ Tuổi Dậu” và bài “Từ Độ Mang Ơn”. Bài mới của tác giả kể về cuộc họp mặt của các cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh và chuyến đi 5 ngày trên du thuyền Carnival Inspiration.
Tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông là cựu sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân đội, cựu tù cải tạo. Ông cũng là tác giả sách "Hành Trình về Phương Đông" do "Xây Dựng" xuất bản năm 2010. Mới nhất, là cuốn "Within & Beyond" do tác giả viết bằng Anh ngữ và tự xuất bản. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả là cư dân Buffalo, NY. đã dự Viết Về Nước Mỹ từ hơn 10 năm trước Bài viết đầu tiên của ông là "Kinh 5 Dị Nhân" kể về vùng quê, nơi có hơn 1000 người -phân nửa dân làng- vượt biên mà có tới hơn 400 người tử vong... Hiện ông đang là cư dân Orlando, FL. và bài mới là chuyện về một số người thành công, một đề tài mà ông đã được mời nói chuyện tại Đại Học Buffalo.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. Với mỏ vàng trên sông Yuba, Marryville khởi thủy từng là thành phố của dân đào vàng. Thời nay, du khách và cư dân tại Marryville vẫn lai rai lượm được vàng cục, có du khách lượn cả cục kim cương trị giá nửa triệu mỹ kim. Đó là chuyện có thật, đề tài của tác giả trong bài viết mùa Lễ Tạ Ơn năm nay.
Nhạc sĩ Cung Tiến