Hôm nay,  

Lễ Tạ Ơn: Những Tấm Lòng Vàng

23/11/200900:00:00(Xem: 123267)

Lễ Tạ Ơn: Những Tấm Lòng Vàng

Tác giả: Võ Trang
Bài số 2791-1628862- vb2112309

Tác giả 56 tuổi, cư dân ở San Diego; Kỹ sư điện cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ, đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2009, với ba bài viết hợp  thành một tự truyện ba hồi: Ký ức đau thương về người cha bị cộng sản chôn sống trong trận Tết Mậu Thân tại Huế, tâm trạng một trí thức gốc Việt  vừa biết ơn quê hương thứ hai, đồng thời cũng "mang trong lòng một mối hận người Mỹ đã bỏ rơi đất nước mình". Và sau cùng là “một thoáng hạnh phúc” tìm thấy từ nước Mỹ  tử tế không chỉ với đồng loại mà với cả muôn loài. Sau đây la bài viết mới của ông cho mùa lễ tạ ơn.

***
Chúng tôi đến San Diego vào khoảng cuối tháng Mười năm 1979, lúc thiên hạ chuẩn bị lễ Tạ Ơn. Năm nay, vừa đúng 30 năm.
Còn nhớ, bữa ăn đầu tiên của tôi ở Mỹ là một đùi gà. Khi ngồi chờ chuyển tiếp ở phi trường San Francisco, chúng tôi được cho ăn trưa với một đùi gà chiên khô (Kentucky") và một lon Cocacola...  Ôi cái đùi gà ngọt và lon coke mát làm sao!   Cho bù lại những ngày tháng thèm khát ở trại tị nạn. 
Từ đây, gà Tây là món ăn của gia đình tôi trong nhiều tháng trời.  Lúc ấy vật gía còn rất rẻ.  Nếu tôi nhớ không lầm thì cả một con gà Tây chỉ chừng 5, 7 đồng.  Hai vợ chồng và đứa con nhỏ ăn cả tuần không hết.  Cũng nhờ thế mà với trợ cấp tị nạn, chúng tôi vẫn còn dư được chút đỉnh để gởi về cho mẹ tôi, lúc ấy vẫn còn ở trong một traị tỵ nạn ở Indonesia.
Vào thời điểm ban đầu đó, nơi sinh hoạt đông nhất của người tị nạn mới đến ở San Diego có lẽ là những trung tâm giáo dục và tìm việc cho người lớn. 
Sau 5 năm làm sinh viên y khoa tại Saigon, ngay khi tới đất Mỹ, tôi chú trọng 2 môn:  luyện thi Y Khoa và chứng chỉ TOEFL để vào đại học.
Đi học Anh Văn ở Trung Tâm  Adult Center ở đường số 54th giúp tôi quen ông Carrol, một ông già chịu chơi, giống như hình ảnh tài tử Anthony Quinn trong vai Alexis Zorba của  Nikos Kazantzakis...  Sau khi hồi hưu,  ông vẫn bỏ công sức đi dạy thêm cho người tàn tật.
Đã hơn 65 tuổi nhưng ông Carrol vẫn nhanh nhẹn, sắc bén và nhất là vẫn dí dỏm với ... phụ nữ. Ông ở độc thân trong một appartment trên một ngọn đồi cuối đường Kremper, cách appartment  chúng tôi ở East San Diego khoảng 5  dặm đường nhưng từ khi quen biết, ông vẫn lui tới thăm hỏi và giúp đỡ chúng tôi ít nhất mỗi tuần một lần.  Ông thường hay thu thập những tin tức có ích về đời sống, dù nhỏ nhặt cho chúng tôi.  Ông tìm những nơi giải trí rẻ tiền hay không tốn tiền, những buổi hòa nhạc công cộng để chúng tôi có cơ hội sinh hoạt lành mạnh.  Là người công giáo thuần thục nhưng ông chưa bao giờ phân biệt đối xử.  Có lần họp bạn riêng của ông, ông giới thiệu tôi như là một người ngoại đạo nhưng rất  tốt nên không cần phải theo... công giáo.  Ông tập lái xe cho chúng tôi.  Cuối tuần còn chở cho chúng tôi đi garage sale để mua đồ rẻ!...
Ông Carrol có giới thiệu tôi  hai người đàn bà Mỹ mà tôi vẫn nhớ mãi trong đời.  Một người là bà Mary Bruske, hồi đó là Giám Đốc Điều Hành Trung Tâm Huấn Luyện Kaplan ở San Diego - một thiếu phụ trung niên gốc Do Thái, đẹp, dễ thương và rất cởi mở.  Tôi chưa bao giờ quên được lời bà nói: "... ngày nào tôi còn là Giám Đốc ở đây thì ngày ấy anh vẫn còn có thể học miễn phí bất cứ môn luyện thi nào..." 
Thuở ấy Trung Tâm Kaplan còn ở trên đường Garnet cách bãi biển Pacific khoảng một dặm đường. Đường đến Trung Tâm từ appartment của tôi ở phải dùng 2 chuyến xe bus.  Từ East San Diego xuống Downtown rồi đổi xe đi ngược lên phía Bắc qua Mission Bay...
Mỗi ngày tôi rời nhà rất sớm, nhiều lúc ngũ gục trên xe bus. Chiều về, tôi đến thẳng Trung Tâm Adult Center ở đường số 54th, nơi ông Carrol dạy để học thêm Anh Văn.  Tan lớp, tôi đi bộ về lại appartment cách đó khoảng nửa dặm thì đã gần 10 giờ tối...  Trời tốt thì không sao.  Nhưng những lúc mưa lạnh, nhất là vào mùa đông đầu tiên trên xứ người mới thấy thấm thiá thân phận của người vong quốc. Vợ tôi ở nhà trông đứa con nhỏ 3 tuổi, nhiều lúc tối trời, ngoài đường xe cứu thương hay cứu hỏa hú còi lớn tiếng làm 2 mẹ con hoảng sợ trốn vào phòng ngủ...
Cũng từ liên lạc bằng điện thoại, ông Carrol giới thiệu tôi với bà Giám Đốc Phòng Giáo Vụ của trường Y-Khoa, Đại Học UC Irvine.  Ông đã đích thân lái xe đưa tôi lên gặp bà để hỏi chuyện về một chương trình MKSP (Medical Knowledge Science Profile), một chương trình thi vào y khoa "ngang hông". 


Trong Anh Văn tôi "dở" nhất là cách dùng giới từ (preposition).  Trong tiếng Việt, giới từ được dùng tùy vào vị trí của người đang dùng nó.  Chẳng hạn đang ở trong thì dùng tiếng "ngoài", đang ở trên thì dùng tiếng "dưới"...  Khi được hỏi tại sao anh tin rằng anh có đủ khả năng để vào chương trình này thì tôi đã "nhanh nhẩu" trả lời "I believe ON myself" thay vì I believe in myself!...  Cả ông Carrol và bà Giám Đốc nhìn tôi mĩm cười.
Việc thi vào y khoa theo chương trình MKSP nghe thật hấp dẫn nhưng chỉ dành cho những ghế trống, rất giới hạn và cho sinh viên của cả thế giới. Xét kỹ, Về sau, nhờ bà giám đốc này giải thích cặn kẽ rõ ràng hơn, tôi mới có thể tự lượng hoàn cảnh mình và quyết định chuyển ngành....
Bốn năm Đại Học Khoa Học, 5 năm Y Khoa Sài-Gòn và thêm gần 2 năm thử lửa với hệ thống Y-Khoa Mỹ...  11 năm là sinh viên "liên trường" có lẻ đã đủ cho tôi thôi "Giỡn mặt với cuộc đời", nhất là những lúc sắp hàng trả tiền bằng phiếu thực phẩm hay đi học nhưng không dám khai vì "welfair không phải là phương tiện cho anh đi học đại học"!
Tôi chấp nhận dễ dàng công việc đầu tiên sau khi ra trường. Một mình lái xe từ cực Nam lên cực Bắc của miền Tây nước Mỹ để nhận nhiệm sở, tôi được gởi gấm để tá túc vào nhà một người bạn của chị Tường Vi, bạn vợ tôi, như họ đã lo lắng và cố tình giúp tôi trong những ngày đầu trên "đất khách quê người..." 
Đặt chiếc vali trên nền thảm và ngả mình xuống chiếc gường con trong một căn phòng chỉ lớn bằng ¼ của 1 cái garage 2 xe, chế biến thành phòng ngũ cho thuê tôi mới thấy mệt sau 3 ngày lái xe liên tiếp.  Trong cái lành lạnh cuối Đông và ánh sáng mờ nhạt hắc hiu từ chiếc cữa sỗ nhỏ duy nhất trên cao, tôi bỗng thấy cay cay trong đôi mắt. 
Vị chủ nhiệm đầu tiên của tôi có tên lạ là Bob Meade.  Lúc đầu tôi nghe thành Bob Meat mà cứ tức cười sao người Mỹ lại có cái họ lạ này, thậm chí còn chọc nghẹo, khiến cô thư ký phải chỉnh nhiều lần rồi cuối cùng lắc đầu chịu thua. Có lần, nhân ngày lễ "Ma Quỷ" (Halloween) ông hóa trang thành một con dã nhân đi dọa nhân viên.  Khi ông dến gặp tôi, tôi cảnh cáo ông rằng ông phải coi chừng, nếu lỡ lọt vào một lồng dã nhân thật, nó tưởng ông là người cùng giống nhưng khác phái thì nguy!  Cả đám đồng nghiệp sững sốt!  Một người bạn Mỹ của tôi nói nhỏ rằng "trong cả cái Department này có lẻ chỉ có mày mới dám giỡn mặt với ông ấy như thế!".  Nhưng vị chủ nhiệm của tôi chưa bao giờ tức giận.  Ngược lại, ông đã dành cho tôi những quan tâm đặc biệt. 
Dù tôi chỉ là một nhân viên tầm thường trong Department, ông nhận lời mời của tôi và cùng với vị Division Head, đến dùng bữa cơm thân mật trong nhà nhân ngày mẹ tôi lên thăm và dùng thời gian thuyết phục me tôi để tôi ở lại làm việc. 
Về sau, khi không còn thuyết phục được cả tôi và mẹ tôi, ông đã giúp "đánh bóng" tôi lên để gởi tôi về lại San Diego trong 1 project do chính Department của ông sponsor.  Ông còn sắp xếp cho tôi trở thành nhân viên cơ hữu ở đây nếu sau một năm chứng tỏ có khả năng - một sự sắp xếp vẹn toàn từ A đến Z chỉ để giúp tôi hoàn thành một tâm nguyện!  - Ở đâu tôi có thể tìm được một tấm lòng vàng như thế này"

*
Giờ đây, với tôi là mùa Lễ Tạ Ơn thứ 30 tại San Diego. Mỗi khi từ sở về nhà qua đường Midway, tôi vẫn thường nhìn lên khu appartment trên đồi, cuối đường Kremper, nơi ông Carrol ở trước đây.  Lúc quen tôi, ông đã hơn 65 tuổi.  Cộng thêm 30 năm, tôi nghĩ ông đã không còn trên đời. 
Từ ngày rời Trung Tâm Kaplan để trở về học lại tại San Diego State trong hơn 3 năm, rồi tiếp theo là hơn 2 năm nữa lên làm việc ở Washington, tôi mất dần liên lạc với ông Carrol, bà Mary Bruske và nhiều người khác nữa. Nhưng bà Bruske mãi mãi vẫn là ân nhân của tôi.  Vài năm trước, tình cờ nghe Trung Tâm Kaplan dọn về đường Clairmont, tôi có đến thăm và tìm hỏi nhưng hình như không còn ai biết bà Bruske là ai nữa!.
Vậy là ngoại trừ ông Bob Meade, tôi thật không biết tìm ông Carrol và bà Bruske ở đâu để nói lời thăm hỏi. 
Nhân mùa lễ Tạ Ơn 2009, xin ghi lại đây chút lòng thành để nhớ về các ông Edwards Carrol, Bob Meade và bà Mary Bruske, dù tôi luôn hiểu là những tấm lòng vàng này khi thi ơn chẳng bao giờ nghĩ đến được báo đáp.   
Võ Trang

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 867,307,638
Tác giả lần đầu góp bài. Qua bài viết đầu tiên, đã thấy cách ông viết rất tinh tế, chu đáo, nhiều chi tiết sống động. Mong ông tiếp tục viết về nước Mỹ và vui lòng bổ túc sơ lược tiểu sử cùng địa chỉ liên lạc.
Tác giả sinh tại Saigon năm 1962, hiện cư trú tại Tulsa, Oklahoma. Nghề nghiệp: kỹ sư cơ khí, làm cho hãng Boeing, OKC. Học vấn: cao học. Gia đình: vợ và ba con: hai gái, một trai. Góp bài Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, Lê Như Đức là một tác giả rất được quí trọng. Mừng ông tiếp tục viết.
Tiếp theo chuyện “Saigon 68” đây là một hồi ức Mậu Thân về khu Thành Nội Huế. Định cư tại vùng Bắc Cali từ 20 năm trước, Deborath Tường Vân là nhân viên Sở Xã Hội San Jose và từng chăm sóc Bà Trùng Quang -vị niên trưởng của giải thưởng Việt Báo- liên tục hơn 6 năm cuối đời. Cô đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2012. Hồi ức Mậu Thân của Tường Vân là chuyện kể về khu Tây Lộc trong thành nội, nơi phải gánh chịu nhiều tang tóc nhất trong địa ngục Huế Tết Mậu Thân.
Capvanto là một bút hiệu khác của Philato, có lẽ do lối viết cách điệu từ Tô Văn Cấp, tên thật tác giả. Ông sinh năm 1944, từng là một đại đội trưởng thuộc TĐ2/TQLC, đơn vị có biệt danh Trâu Điên. Với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bài viết mới của ông là một hồi ức về trận chiến năm Mậu Thân, khi Đại Đội TQLC do ông chỉ huy được biệt phái theo tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận chiến Mậu Thân tại Saigon 1968.
Tác giả là cư dân Garden Grove, California, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2018. Ông qua Mỹ trong một gia đình H.O. từ tháng Sáu năm 1994, vừa làm vừa học và tốt nghiệp kỹ sư điện tử. Sau đây là bài viết về nước Mỹ thứ ba của ông.
Tác giả là cư dân Minnesota, đã nhận giải vinh danh tác giả Viết Về Nước Mỹ 2008. Với những bài viết thuộc nhiều thể loại đề tài, cô là một tác giả rất được bạn đọc yêu mến.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014 và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Nhân thời điểm 50 năm sau trận chiến Mậu Thân 1968 Viết Về Nước Mỹ 2018 sẽ có thêm giải thưởng đặc biệt về “Hồi Ức Mậu Thân”. Sau đây, xin mời đọc một bài viết cũ của tác giả Võ Trang, một kỹ sư điện làm việc cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ tại San Diego, kề từ hồi ức đau thương về người cha bị cộng sản chôn sống trong trận Tết Mậu Thân 1968 tại Gia Hội, Huế, khi tác giả còn là cậu bé 15 tuổi. Bài viết đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2009.
Tác giả sinh năm 1929 tại Quảng Trị, Cựu Trung Tá QLVNCH, cựu tù cải tạo. Định cư tại Sacramento, Cali. Năm 1991; Hội trưởng sáng lập Hội Thơ Tài Tử Việt Nam Hải Ngoại từ 1994; Sách đã xuất bản: Truyện ký "Người Trai Thời Chiến"; tập thơ "Chuyện Ngày Xưa"; Từng nhận “Certificate of Recogni-tion do The Sacramento International Poetry Hall of Fame tại Đại Hội Thi Ca Quốc Tế Sacramento 2006; Tác giả hiện là cư dân thành phố Garland, Texas và là Hội Trưởng Hội Người Việt Cao Niên Dallas nhiệm kỳ 2016-2017. Cho tới nay, với tuổi 89, ông cũng là vị tác giả cao niên nhất trong năm 2018 dự Viết Về Nước Mỹ. Kính chúc ông vui khỏe.
Nhạc sĩ Cung Tiến