Hôm nay,  

Các Nữ Lưu Vùng Sound Puget Sound

3/19/201000:00:00(View: 301146)

Các Nữ Lưu Vùng Sound Puget Sound

Tác giả: Trương Tấn Thành
Bài số 2871 -1628991- vb6031910

Tác giả là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục năm 2000, từng là nhà giáo trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA. Ông là một tác giả rất nhiệt thành đóng góp bài vở cho giải thưởng Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải thưởng danh dự Viết Về Nước Mỹ năm 2005 với bài viết mang tên "Bà Mẹ Hoa Kỳ".     

***

Những phụ nữ mà tôi đề cập ở đây chỉ là môt số ít trong rất nhiều vị nữ lưu ở vùng đất bao la đầy hồ vịnh ở phía tây bắc của tiểu bang Washington này.  Họ cũng không phải là “tiêu biều” cho giới nào vì họ rất bình dị và ở mọi thành phần.  Có người có may mắn đến trường, có người không có được cơ hội đó nhưng họ cùng có chung đặc điểm đức tận tụy, hy sinh, lắm khi đầy can đảm và nhất là rất bình dị và thật thà.  Trước tiện tôi xin được nói về chị Thơm. (Vì lý do ngoài ý muốn, tôi xin đổi tên những nhân vật trong bài nhưng con người và hoàn cảnh của họ đều là có thật.)
Anh Dượng, chồng chị là bạn của tôi từ hồi tôi mới đặt chân đến vùng đất này (rất buồn là anh mới mất hồi năm rồi).  Ai mới gặp anh Dượng lần đầu đều bị… “dội đạn”.  Nghiã là hết hồn vì ciá mặt lúc nào cũng đỏ lơ như đang xỉn và đầu tóc thì  để dài như các sát thủ trong phim chưởng Hong kong! Tuy vậy, hãy khoan, xin đừng “trông mặt mà bắt hình dong” nhe, tính anh lại hiền như mấy sư huynh trong nhà thờ vậy. Có lẽ qua Mỹ anh đã chịu “cải tà quy chánh” vì theo như anh kể thì hồi còn ở bên xứ mình, anh cũng là một tay trong giới anh chị. Tuy vậy chị Thơm vẫn có vẽ còn nể ca uy vũ của anh.
Chị Thơm là một người vui tánh, chìu chồng và rầt thương con. Nóí về đức tính siêng năng thì ít ai bằng chị. Có thời gian chị lãnh hàng về nhà may ngày đêm, có tháng kiếm đuợc cả trên ba ngàn.  Cứ lúc nào tôi đến chơi đều thấy chị ngồi ở bàn máy, có lẽ phải hơn mười hai tiếng một ngày! Dù vậy bất cứ lúc nào chồng đi làm về, chị đều lo cơm nước tươm tất dù vì mệt mỏi anh hay lẩm bẩm càu nhàu. Thời gian đó còn độc thân nên tôi thường hay đến nhà ăn cơm với gia đình anh chị và để ý thấy dù chị bận rộn đến thế nhưng không lúc nào chị tỏ ra bưc bội vì sư có mặt thường xuyên của tôi. Đó là điều tôi luôn nhớ và cảm ơn chị.
Mỗi năm thường khi Tết đến, chị Thơm đều lên Seattle để mua lá, mua nếp, đậu xanh, thịt heo về nấu bánh tét. Cả ngày hôm đó chị thì lui cui nấu nếp, luộc thịt, nấu đậu, còn anh Dượng thì xếp lá chuối, cắt đây lạt làm tôi thấy hiện ra cả một muà xuân trước mắt mình. Cái nồi nấu bánh thật to đặt bên ngoài phòng sôi sung sục cả ngaỳ ba mươi với hơn cả chục đòn bánh no tròn, góí chắt nịt. Bánh của chị nấu khi đem biếu cho bạn bè ai ăn cũng khen là xuất xắc. Ngồi ăn miếng bánh cắt tròn trịa với thịt kho, dưa gía cũng của chị làm, tôi cảm thấy như mình đang ăn Tết ở nhà thuở nào. Vì lúc đó tôi còn “cu ki” và mướn phòng ở khu kế bên nên tới chơi gần như là hằng ngày mà không bao giờ thấy bị chị “đuổi chó, mắng mèo” gì cả. Quả thật chị là một người “đã giỏi chìu chồng lại khéo nuôi con”.
Mấy tháng trước đây, năm hai ngàn lẽ tư, anh chị đã mua đuợc can nhà còn it tuổi với số tiền phụ giúp của đứa con trai lớn đi làm tận trên Alaska. Giờ đây giấc mơ có nhàcủa gia đình chị và của riêng chị đã trở thành sự thật. Nhìn nét mặt rạng rỡ và đầy hảnh diện của chị khi chúng tôi đến ăn mừng tân gia tôi nhận thấy bao nhiêu công lao hy sinh, vất vã cho chồng cho con của chị đã được đền bù. Chị Thơm là một trong những người phụ nữ bình thường nhưng đối với tôi, chị không tầm thường chút nào cả.
Giờ xin được nói đến vị nữ lưu thứ hai.
Dì Tư Mây là một người đàn bà xông xáo và có tính mạnh dạn, cương quyết của đàn ông. Hồi còn ở bên nhà, dì vừa dạy may vừa làm chủ một tiệm may nổi tiếng ở thị xã Xứ Dừa. Sau khi được chồng bảo lãnh qua hồi cuối năm 92, dì đã tạo nên sự nghiệo cho chồng. Qua bên naỳ dì phải bỏ nghề may để đi clean nhà để kiếm tiền nhưng đóng góp chính của dì cho sự thành công của chồng là việc phụ làm vườn, làm cỏ với chồng. Nhờ tài tháo vát và nhanh lẹ cũng như khéo ngoại giao với khách hàng, công việc của anh chị ngaỳ càng thêm nhiều mối và từ từ khá hẵn lên.
Từ khởi đâu với một cái máy cắt cỏ khi dì chưa qua, giờ có tất cả trên tám cái máy cắt cỏ với không dưói bốn người phụ làm mỗi ngày thường xuyên, nhứt là vào mùa hè. Với óc tính toán bén nhạy, khéo miệng và xông xáo, dì đã nâng số khách hành và mối cắt cỏ của chồng lên thật nhanh. Cái đáng nói ở đây là nhờ biết cách đối xử với ngươi làm phụ và nhờ tính tình bình dị và rộng rãi của dì mà công việc làm ăn trở nên phát đạt.
Không phải như những người chủ khác, dì thật sự quan tâm đến người làm và sẵn sàng giúp khi họ cần. Trời nắng họ có nước ngọt uống, sinh nhật con mình họ đều có quà, cuối tháng ngày phát lương đều có món nhậu, trên bàn đầy nhóc bia Budweiser… Tính cách “bà chủ” không có ở con người của dì. Những nơi thiếu người làm là dì đi phụ cào lá, nhổ cỏ con. Tiền công trả ngươì làm hâu hỉnh và không so đo cắt xén giờ của ngươì làm. Có ngươì lái xe bị phạt, chạy máy cắt cỏ làm văng đá bể kiếng cửa sổ của khách hàng anh chị phải đền... họ vẫn không bị trừ đi tiền công. Mỗi tháng họ đều được trả tiền cho giờ đã làm không trể nải dù chồng của dì chưa nhận được checks thanh toánh của khách hàng.


Chính vì vậy mà trong khi ngươì đi làm cho những chủ khác “đào ngũ” hà rằm như lính đi đánh mướn, còn làm cho vợ chồng dì thì có người “tại ngũ” cả hơn saú năm vẫn còn. Hiện nay vợ chồng dì đã có một sự nghiệp vững chắc và điều đánhg nói ở đây là uy tín và cảm tình của người làm đối với vợ chồng dì vẫn vững bền, không hề suy giảm. Thành quảđó nếu không có dì thì tôi nghỉ là chắc chắn sẽ không được như ngaỳ nay.
Bây giờ xin được nói về chị Thiệt. Chị ở trên miệt Tây ninh thuộc một vùng xa tỉnh lỵ đến nỗi chị không có may mắn đi học để có thể đọc rành chữ Việt. Khi chồng đi vượt biền với đứa con trai lớn thì chị ở lại nuôi đứa nhỏ để chờ ngày được chồng bảo lãnh. Ngày đó đã đến với chị. Tôi còn nhớ ngày tôi và chồng chị cùng mấy ngừơi bạn lên phi trường đón chị qua. Chị mặc cái aó dài vải gấm ta trông thật là chân chất. Các bạn thử đặt mình vào địa vị của chị mới cảm nhận cái khổ tâm và nỗi lòng hoang mang mức nào khi đặt chân lên đất Mỹ này mà không biết một chữ.
Sau đó mỗi lần tôi đến chơi chị đang cố gắng ngaỳ đêm học tiếng Anh một cách thật khổ sở nhưng đầy kiện trì. Rồi  chị lại cố gắng học ngày đêm để thi lái xe và làm ai nấy đều phải phục chị sát đất khi chị thi đậu và có thể lái xe đi chợ mỗi ngày như ai! Dãy đất chung quanh căn phòng chị ở xanh um những rau cải do chị chăm bón hằng ngày. Mỗi tối trên bàn ăn của chị lúc nào cũng vun đầy rau thơm, hành hẹ và chị rất hãnh diện về thành quả do công sức vun bón đó của mình.
Đến mùa câu cá mực, dù trời đầy tuyết giá buốt lạnh, chị theo chồng đi câu ngày này qua tháng nọ để có ăn và cũng để cho bạn bè nữa.  Một thời gian sau chị sinh được một bé trai thật kháu khỉnh và khôn ngoan rất được chồng cưng vì “thằng này nó đẻ bọc điều”. Đưá bé ra đời tạo sự thiếu thốn trong nha. Trước nhu cầu khẩn thiết chị thấ mình phải đi học mọi nghề gì đó để kiếm thêm tiên. Chị đã dám một mình lái freeway lên đến tận Tacoma để học làm nail khi chữ nghĩa, tiếnh Anh tiếng u vẫn chưa rành. Tôi thật phục cái ý chí gang thép của chị.
Khi đi làm vì cái vốn học quá ít và thêm vào đó là bản chất chậm chạp của mình, chị không được mướn lâu dài. Bẳng đi một thời gian lâu tôi nghe chị được vào làm ở kho chứa hàng của cơ sở Good Will. Có lần hai vợ chồng tôi có ghé thăm chị và thấy chị có vẻ đã hội nhập được nhiều vào sinh hoạt của xứ này. Tuy vậy tôi vẫn cảm nhận đươc nổi khổ tâm về cáí kém may mắn về học vấn vẫn còn rầu rầu hiện trên nét mặt chân thật của chị.  Ý chí cứng như gang thép của chị, một người đàn bà quê không rành chữ nghĩa nhưng quyết chí tạo cho mình một chỗ đứng ở xứ lạ quê ngừơi gây trong tôi niềm kính phục. Chị hơn hẳn những người có nhiều điều kiện hơn chị nhưng không chịu làm gì đề vượt khỏi con người tầm thường chỉ biết an phận của mình.
Tương phản với chị Thiệt, chị Duyên là cô giáo trước năm 75 và có chồng cũng là trong nghề dạy học. Khi chồng bảo lãnh sang đây, chị hoạt động rất tích cực trong cộng đồng ở Olympia, nhất là trong lãnh vực giáo dục. Chị đã và đang là cô giáo cho trường Việt ngữ Hùng Vương ở Olympia. Ngoài việc dạy học, chị phụ trách phần dạy ca, múa cho các em và thành lập được một đoàn múa dân tộc cổ truyền để trình diễn khi có lễ hội ở quận hay trong những ngaỳ lễ Tết, vào dịp bải trường hằng năm. Chị còn soạn bài dạy cho các lớp Việt ngữ và đi tu nghiêp ở các khoá hội thảo về sư phạm do thầy Phan Ngô tổ chức ở California.
Chị tuy nhỏ con, gầy thấp nhưng làm việc tận lực để nâng cao phẩm chất giảng dạy của trường và nhất là lúc nào chị cũng tươi cười, niềm nở với mọi người. Chị quả là một nhà giáo có nhiệt tâm duy trì tiếng Việt cho thế hệ con em sinh ra và lớn lên ở bên này. Đối với chị “ không lo các em thua người về tiếng Mỹ mà chỉ sợ các em không nói, viết được tmình.” Chị luôn kêu goị tôi tiếp tục đảm nhận một lớp như tôi đã từng làm nhưng tôi rất tiếc vẫn chưa làm chị vui lòng được. Cáo lợi mà chị đem lại cho công đồng nói chung và cho các em sinh ra bên này, nói riêng là to tác đến mức không của cải vật chất nào so sánh được. Chị đã cống hiến rất nhiêu cho sự tồn vong của tiếng Việt ở vùng đất này. Chị xứng đáng được mọi người tri ơn và qúi trọng dù chị không hề giữ một chức vụ nào. Người như chị không cần phải có chức vụ mới làm được những chuyện “lợi dân, ích nước.” Chỉ với một tấm lòng yêu tiếng nói của dân tộc mình, chị đã quên đi những nổi nhọc nhằn, hư danh, những lợi ích cho bản thân để phục vụ cho công đồng này. Tôi tin rằng chị sẽ được nhắc mãi trên môi những trẻ nhỏ sinh ra ở đây khi chúng lớn lên và còn nói được tiếng mẹ đẻ của mình.
Chúng ta rồi ai cũng sẽ từ giã chuyến đò đời, xuống ghe để đi qua thế giới hư vô. Chẳng ai đem theo được gì cả chi trừ những gì mình đã làm cho mọi ngươì và cái ý chí cố gắng vượt khỏi cái tầm thường của mình. Nếu nhìn kỹ lại chung quanh, ta sẽ thấy rất nhiều người, ở mọi giai tầng, giàu nghèo, học ít hay học nhiều, nam có nữ có, đã làm được việc đó.
Bài này được viết để nhớ đến anh Được, người bạn đã quá cố. Và cũng để cảm ơn Phương Trang của anh, em là một trong những nữ lưu đó./.
Trương Tấn Thành

Send comment
Off
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Your Name
Your email address
)
Add a posting
Total View: 857,135,699
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, 2019, với bài “Tình người hoa nở”, tháng 12, “Mùa kỷ niệm” và “Chị em trung học Nữ Thành Nội.” Cô tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali và còn đi làm. Bài gần đây nhất của tác giả là “Chuyện về Những Bà Mẹ”. Sau đây là bài viết thứ 8.
Tác giả qua Mỹ năm 1998 diện đoàn tụ ODP, là một kỹ sư từng làm việc tại Kia-Tencor San Jose, California. Lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ với bài viết về Mẹ trong mùa Mother’s Day 2019, ông cho biết có người cha sĩ quan tù cải tạo chết ở trại Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa. Bài viết mới kể về chuyện người mẹ và tác giả thăm nuôi đúng vào những giờ phút sau cùng của người cha trong trại tù cải tạo. Tựa đề đầy đủ của bài viết: “Ba Tôi, Những Giờ Phút Sau Cùng và người bạn tù trên đất My” được rút gọn theo nội dung.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, hiện là cư dân Arkansas. Bà sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Tới Mỹ vào tháng 8, 1985, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016 và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, Dong Trinh có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Thời tiết Cali đầu tuần bất ngờ có mưa bụi mát mẻ, hệt như tiết xuân dù đang mùa kiết hạ. Đúng là lúc có thể mơ xuân với một truyện tình vui của Orchid Thanh Lê, tác giả đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2015. Cô sinh tại Sài Gòn, hiện là Phó Giáo Sư tại Viện Nghiên Cứu Ngôn Ngữ Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, Monterey, Calif. Đây là bài tác giả gửi sớm, tính dành cho báo xuân Canh Tý 2020 sắp tới. Sắp họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 20, mời đọc trước chuyện xuân.
Họp mặt phát giải thưởng và ra mắt sách Việt Báo Viết Về Nước Mỹ năm thứ XX - gồm những bài viết được phổ biến từ 1 tháng Bẩy 2018 tới 30 tháng Sáu 2019 - được quyết định tổ chức vào Chủ Nhật 11 Tháng Tám 2019, và 16 tác giả sẽ nhận các giải thưởng.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng Sáu 2017, cô đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX và hiện là cư dân Los Angeles, công việc: làm tax accountant. Bước sang năm thứ 20 của giải thưởng, tác giả tiếp tục cho thấy một sức viết mạnh mẽ khác thường. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Father's Day 2019, mời đọc bài viết mới của Hoàng Chi Uyên. Tác giả là một chuyên viên xã hội từng nhận giải thưởng lớn khi được bình chọn là nhân viên xuất sắc trọn năm 2003 và phụ trách Phòng Xã Hội, thuộc Trung Tâm Cao Niên thành phố Milpitas, Bắc California, và đã về hưu. Tháng Ba 2019, bà góp bài viết về nước Mỹ đầu tiên: "Bà Ngoại Khác Chủng Tộc" kể về hoạt động xã hội; Bài thứ hai: "Ban Cướp Biển," hồi ký về nhóm điều tra chống cướp biển trại tị nạn Pulau Bidong.
Mùa Father's Day, mời đọc chuyện “Ba Thế Hệ Cha và Con" của tác giả từng nhận giải Danh Dự VVNM 2013. Bài viết mới của Vĩnh Chánh là hồi ký về một gia tộc hoàng phái quyền chức, với những mảnh vỡ trôi dạt từ trong ra ngoài nước.
Chủ Nhật 16/6 là Father’s Day 2019. Mời đọc bài viết đặc biệt của tác giả từng nhận giải Danh Dự VVNM năm thứ mười chín, 2018. Bà.cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy 2001 theo diện đoàn tụ. Bà hiện là chủ tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Về người cha được tưởng nhớ, mời coi lại hình ảnh và bài viết “Công Chúa Triều Nguyễn” do tác giả Tôn nữ Trấn Định Minh Nguyệt thời đổi đời, trong đồng phục tài xế taxi tại Huế, lái xe đưa thân phụ Vĩnh Bạch từ Mỹ về, cúng đền Trấn Định Quận Công tại Truồi
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng Năm 2019. Ông là anh cả trong 9 anh chị em, có người cha chết trong trại cải tạo Vĩnh Phú từ 1979, bà mẹ một mình lo cho các con. Ông qua Mỹ năm 1998 diện đoàn tụ ODP, hiện là một kỹ sư, làm việc tại Kia-Tencor San Jose, California. Bài viết mới được “Viết trong ngày sinh nhật 88 của Mẹ,” Tựa đề được trích từ lời kết của bài viết xúc động: “Căn bệnh Alzeithmer với mẹ cũng là một may mắn trong muôn vàn bất hạnh. Cái quên, cái lẫn sẽ làm mẹ có thể sống được với tôi, với con cháu thêm một thời gian.”
Nhạc sĩ Cung Tiến