Hôm nay,  

Địa Đàng Đã Mất

23/06/201000:00:00(Xem: 130315)

Địa Đàng Đã Mất

Tác giả: Huyền Thoại
Bài số 2928-28228-vb4062310

Với nhiều bài viết sinh động về nhiều đề tài khác nhau, Huyền Thoại- Thịnh Hương là tác giả đã nhận giải danh dự Viết Về Nước My 2006õ. Cô hiện làm việc và cư trú tại San Jose.

***

Tháng Tư năm nay, trong khi người Việt hải ngoại chuẩn bị tưởng niệm 35 năm cái chết của miền Nam vào ngày 30 tháng tư năm 1975, thì ngày 26 tháng tư, Passage Eden đã bị phá sập, lấy chỗ cho một dự án nào đó.  Chấm dứt 60 năm phơi gan cùng sương gió của một chứng tích lịch sử.  Passage Eden, một địa danh  đã chứng kiến bao nhiêu thăng trầm và biến đổi của một Sàigon hòa bình, một Sàigon chiến tranh, một Sàigòn thảm bại ủ dột, và một Sàigòn chiến thắng tang thương.  Nó đã chứng kiến Sàigòn bị đổi tên, bên cạnh ba địa danh nổi tiếng khác cùng một thời.  Hai khách sạn, Continental và Caravelle.
Nghe tin Passage Eden vừa bị phá bỏ, tôi nghe lòng ngậm ngùi, tiếc nhớ.  Tiếc nhớ một thời tuổi trẻ mộng mơ.  Passage Eden, trong tôi, là vũ trường  Queen Bee với những đêm thứ bảy cùng chàng đến nghe Lệ Thu, Thái Châu, Bích Chiêu, Bạch Yến.  Là những chiều cuối tuần tuổi trẻ tụ tập nghe The Dreamers với July, Thái Hiền và Duy Quang. 
Nhưng trên hết, Eden với tôi là tiệm ăn sang cả mang tên Givral.  Givral và những bánh xu, bánh bông lan và bánh vỏ ốc ngọt ngào.  Givral, một thời của yêu thương hẹn hò.  Những chiều thứ bảy, chàng đưa tôi đến Rex xem ciné, đi mua sắm ở thương xá Tax, và sau đó vào Givral ăn uống, tay trong tay, mắt trong mắt.  Givral ngày đó là của văn nghệ, của thi sĩ, của nhà báo và nhửng người nhiều tiền.  Hoặc chẳng nhiều tiền nhưng muốn làm đẹp cho nhau trong những lần hẹn.   Givral và những ly café nồng đậm yêu đương, những ly kem mềm môi mướt giọng.
Givral, sáng trưa chiều tối.   Givral, sáng nắng chiều mưa.  Givral và không gian mát lạnh giữa mùa hè nóng cháy.


Givral với người Sàigòn dập dìu qua lại.  Givral với những gót chân ngoại quốc lững thững ngắm nhìn.  Givral, nơi chốn thời thượng của một thành phố mang nhiều sắc áo chiến tranh và chinh phục.  Sáu mươi năm tuổi, bao nhiêu buồn vui lẫn lộn trong lòng Givral.  Diễn hành lực lượng, đảo chánh, biểu tình... Givral và ngày thành phố phải mang áo đỏ và tượng đồng trong công viên phía trước đổ nhào.
Sau ngày 30 tháng tư năm đó tôi vẫn trở lại nơi đây nhiều lần.  Trở lại để hồi tưởng, để nhớ để tiếc và để nước mắt chảy ngược vào tim.  Bánh ở đây tuy vẫn còn nhưng đã mất nhiều hương vị.  Người trong Givral không còn có những tia nhìn đắm đuối, những nụ cười tươi thắm và những ánh mắt nồng nàn.  Người trong Givral lúc đó hoặc thẫn thờ, hoặc ngu ngơ, cục mịch.  Tôi vẫn mua bánh Givral để mua cho mình một ảo tưởng.  Givral còn đó như một tri kỷ, một chịu đựng sớt chia. Sàigòn đã mất tên, nhưng còn Givral, tôi vẫn còn  chút ấm áp thỉnh thoảng trở về sưởi ấm cõi lòng buốt giá.
Những đền đài hoang tàn ở Hy Lạp, ở La Mã vẫn còn được trân trọng, che chở và duy trì.  Thì tại sao người ta lại đành lòng phá huỷ một di tích lịch sử của quê hương tôi"   Tôi có thể hiểu được vì sao chiến sĩ trong công viên và tượng đài Thương Tiếc bĩ giật ngã. Người ta làm vậy để nhận ra mình là kẻ chiến thắng và người kia phải ra đi.  Mình là hiện tại, và người kia là dĩ vãng.  Nhưng Givral và Hành Lang Địa Đàng đã làm gì để phải vĩnh viễn ra đi"  Người ta chê nó già nua, cũ kỹ.  Như một bà già.Thì có khó gì đâu" Địa Đàng vẫn là một phụ nữ nhan sắc còn ưa nhìn.  Da nàng có bị nắng mưa làm phai nhạt, nhưng tại sao người ta không cho nàng một "face lift", một "make over"  để kéo dài cuộc sống của nàng,  Người ta có thừa điều kiện để bảo vệ dung nhan của nàng.  Nhưng người ta đả chẳng yêu nàng đủ để cứu sống nàng.  Người ta muốn chôn nàng để lấy chỗ cho một dung nhan nhạt nhẽo, vô duyên nào đó. 
Tôi buồn, và tôi hiểu vì sao tôi buồn.  Chắc cũng có nhiều người buồn như tôi.

HUYỀN THOẠI

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 861,967,080
Tác giả cho biết ông là một thầy giáo hưu trí, hiện là cư dân Westminter. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là chuyện bà mẹ nhất định phải con gái còn ở Việt Nam cho một tăng sĩ để mang con qua Mỹ.
Tác giả sinh năm 1957, cư dân Santa Ana, công việc: làm nail. Tham gia viết về nước Mỹ từ 2011, với bút hiệu Hữu Duyên Nguyễn và bài "Cám Ơn Bố", bà đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2012. Sau đây là bài viết mới nhất của bà.
Tác giả là cư dân Nam Cali. Ông cho biết “bút hiệu Tô Ba Lây lấy cảm hứng từ mấy anh du khách vùng trời Tây sang du lịch ở Việt Nam. Không tin, xin nói lái sẽ hiểu.” Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là “Tào Lao Chuyện Mỹ”, rồi thêm “Những Chiếc Xe Kỷ Niệm”.
Tác giả là một nhà giáo hưu trí, cư dân Riverside, đã góp nhiều bài viết đặc biệt cho giải thưởng Việt Báo từ năm đầu tiên, và nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2009. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. đầu thập niên 90, cư dân Berryhill, Tennessee, làm việc trong Artist room của một công ty Mỹ. Giải thưởng VVNM 2013, cô có 5 bài tham dư và đã nhận giải Vinh Danh Tác Giả (hình bên) với hai bài viết tiêu biểu: “Thiên Thần Đen” và “Cũng Một Đời Người”,
Mai Hồng Thu tức Donna Nguyễn là tác giả vừa nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2013. Định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1985, tác giả là cư dân Bắc California và dự giải Việt Báo từ 2008. Các bài viết của cô luôn cho thấy sự thẳng thắn, đôi khi ngang tàng nhưng tử tế vui vẻ. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả định cư tại Seattle từ 1975, đã hồi hưu sau khi phục vụ trong ngành xã hội tiểu bang nhiều năm. Bài viết Về Nước Mỹ đầu tiên của Nguyễn Đặng Bắc Ninh là “Nàng Dâu Mỹ” cho thấy cách viết chừng mực mà sinh động. Sau đây là bài viết thứ hai.
Tác giả tên thật là Nguyễn Cao Thăng, 52 tuổi, dân gốc Kinh 5 Rạch Giá, một cựu thuyền nhân, hiện là kỹ sư cơ khí của hãng máy bay Beechcraft tại Wichita, Kansas. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên ông là “Một Vòng 5,000 Miles”. Sau đây là bài viết thứ hai.
Kông Li là bút hiệu vui vẻ của Phạm Công Lý, tác giả từng nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2011. Là một cựu sĩ quan VNCH, cựu tù, ông cùng gia đình đến Mỹ từ tháng 11/1994 theo diện HO, định cư tại Boston. Công việc từng làm: thông dịch cho Welfare, social worker, phụ giáo,
Với “Hồi Ức Tháng Tư Của Long Mỹ,” cùng viết với người cháu là Hải Quân Trung Tá Paul LongMy Choate, Trương Kim Hoàng Thư đã nhận giải Vinh Danh Viết Về Nước Mỹ 2012. Bài mới của cô là một chuyện ma trong kỷ niệm từ thời mới 9 tuổi. Tác giả rời Việt Nam sang Mỹ từ tháng 10 năm 1974,
Nhạc sĩ Cung Tiến